CHÀO MỪNG BẠN ĐẾN VỚI MỘC HOA VIÊN
Cảm Nhận Về Thi tập THƠ XƯỚNG HỌA
CAO MỴ NHÂN & TRỊNH CƠ
Bài đăng trong Việt Báo California:
https://vietbao.com/a304086/thi-tap-tho-xuong-hoa-cao-my-nhan-trinh-co
Tôi
quen biết nhị vị thi sĩ Cao Mỵ Nhân (Hoa
Kỳ) và
Trịnh Cơ (Pháp Quốc) cũng
đã được mấy năm, khởi đầu từ trên những diễn
đàn Đường Thi xướng họa. Tôi
rất quý mến và ngưỡng mộ họ, và tôi cũng biết, cả hai đều từng là quân nhân Việt
Nam Cộng Hoà, là anh kiệt và anh thư phục vụ nước nhà
từ trước 1975 cho đến ngày tan đàn xẻ nghé.
Nhà
thơ đàn chị Cao Mỵ Nhân thì tôi đã có dịp gặp mặt về sau tại Văn Thơ Lạc Việt,
San Jose, Hoa Kỳ. Chị nhìn hiền hoà, rất trang
nhã, nhưng ít nói, nét mặt có chút nghiêm nghị và hơi... kỳ bí, kỳ bí như những
vần thơ du dương nhưng đầy ẩn ý ẩn tình của chị. Tôi
thích mê sự kỳ bí ấy, cũng thích mê sự
phong phú về chữ nghĩa của nhà thơ, và niềm mê thích này đã làm cho tôi đôi khi xúc động tận tâm
can chỉ vì đọc
được một vài câu độc đáo
trong các
bài thơ của chị. Mỗi lần đọc thơ Cao Mỵ Nhân
tôi thường hay nghiền ngẫm, tìm tòi, để nhận chân và thưởng thức cho kỳ hết những
tinh tuý của bài thơ trước khi đặt bút đáp họa.
Riêng
về thi sĩ Trịnh Cơ thì tôi chỉ gặp anh qua... bóng. Trong tấm hình, có một chiếc
bóng nhìn từ phía sau lưng, dáng người dong dỏng cao với mái tóc hoa râm đang
bước độc hành trên con đường dài hun hút tận bên trời Paris, Pháp Quốc. Dù với dáng vẻ cô đơn lẻ loi ấy,
nhưng tâm hồn Trịnh Cơ lại chất chứa ngập tràn những búp nụ, những mầm thơ mượt
mà, ngào ngạt hương thơm. Dù chưa bao giờ diện kiến, nhưng tôi luôn thích đọc thơ của thi sĩ và cố gắng họa lại bài xướng của anh mỗi khi chúng xuất hiện trên các diễn đàn nếu tôi có thời gian.
Trên
các diễn đàn, hai nhà thơ nổi trội Cao Mỵ
Nhân và Trịnh Cơ vẫn thường xuyên xướng họa cùng chúng tôi trong vẻ vô tư. Nhưng tôi thật bất ngờ, bất ngờ đến
giật cả mình, khi hôm nay nhận được tập thơ mà hai vị đang chuẩn bị in chung. Bao ý nghĩ ngộ
nghĩnh chợt nảy ra trong đầu tôi, như có lẽ họ đã từng
là một cặp “thanh mai trúc mã” ngày xưa, từng bị cách chia kẻ chân trời người
góc bể vì quê hương loạn lạc bây giờ gặp lại, có lẽ vì sự trắc trở ấy đã khiến
cho hai tâm hồn xao
động nên ý thơ mới ngùn ngụt, hồn thơ mới dạt dào, và tình thơ mới lai láng đến
thế. Lòng rộn ràng với những ý nghĩ tò
mò đầy thú vị
đó, tôi vội buông bỏ tất
cả mọi thứ bận rộn đời thường để mở tập thơ ra mà nghiền ngẫm, mà thưởng thức một cách... “triệt để.”
Thấy bài
thơ đầu tiên “ANH VÀ 2019” là của
thi sĩ Cao Mỵ Nhân, tôi cười thầm
trong thích thú. Nhà thơ Trịnh Cơ hiện đang sống ở phương Tây nên thực hiện đúng cái câu
“Lady’s First,” phụ nữ luôn ưu tiên số một, để nhường nữ thi sĩ “ra tay trình làng” trước, chứ không phải như
phong tục Á Đông mình, đã xem thường thân phận cánh quần thoa, lại còn cho là “Phụ nhân nan hóa,” phụ nữ không dễ gì dạy
dỗ, cảm hóa được, và mỗi khi ra đường, người đàn bà thường phải đi phía sau để
cho phù hợp với câu “Núp bóng tùng quân” cổ
hủ.
Bài đầu tiên trong thi tập, “ANH VÀ 2019,” là bài thơ Lục Bát Cao Mỵ Nhân viết lúc đón Giao Thừa, khi thi sĩ đang ngồi cùng “người ấy”
(hay tưởng tượng có người ấy ngồi cùng) nhìn TV chờ đếm phút quả cầu Chào Mừng
Năm Mới vỡ tung, nhưng trong lòng không có chút hơi hướm mừng vui hạnh phúc vì
được đón Giao Thừa, mà lại chứa đựng ngập tràn tâm tư sầu nhớ. Hình ảnh
sống động nhất tác giả cho thấy trong bài thơ, là nữ thi sĩ đưa tay chặn lên trái tim lúc trái cầu sắp
vỡ và nhìn vào TV thấy trời đêm rõ ràng nhưng lại không thấy cố quốc nơi đâu. Nỗi
niềm thương nhớ về quê Mẹ Việt Nam trong thời điểm giao Xuân của người con ly
hương đã gói trọn vào mấy câu thơ làm xao động lòng người:
“Ở đây không có... Việt Nam
Quả
cầu quê mẹ cơ hàn héo khô
Trái
tim thất nhịp mơ hồ
Đêm
đen đổ xuống nấm mồ giao xuân...” (Anh Và 2019
–
CMN - tr. 12)
Người ta nói,
thơ Lục Bát dễ làm nhưng làm rất khó hay, và họa thơ Lục Bát thì lại càng không
dễ. Chữ nghĩa cần phải lưu loát mượt mà, ý tứ phải sâu xa, và vần điệu phải
phù hợp mới là một bài họa hấp dẫn khiến độc giả chăm chú
thưởng thức; và
quan trọng nhất là, phải tránh tình trạng làm thơ Lục Bát đọc
lên nghe như…ca dao, khiến người ta chỉ lướt phớt qua rồi đánh giá bài họa có đúng vần đúng luật hay chăng. Ở đây chúng ta có thể thấy nữ thi sĩ Cao Mỵ Nhân gặp phải “Kỳ phùng địch thủ.” Nhà thơ Trịnh Cơ đã gom được đủ các yêu cầu ấy trong bài họa “2019 ĐỐI MẶT.”
Chưa kể đến những đối đáp xướng họa khá lý thú trong khổ thơ đầu về chuyện cả hai mơ ước cùng ngồi bên nhau,
cùng đưa tay đặt lên tim khi nhìn TV trong giờ Giao Thừa chỉ thấy bầu trời đêm, và đôi bên
người thì “xin còn mãi nhau,” kẻ hứa “sẽ còn với nhau,” xin mời quý vị cùng thưởng
thức vế họa tuyệt vời của thi sĩ Trịnh Cơ, cũng bày tỏ cái
tâm trạng đau buồn vì mất quê hương trong giờ Trừ Tịch cùng với thi nhân:
“Nhìn kỹ... đâu có Việt Nam
Đêm
đông lạnh lẽo nỗi hàn lạnh khô
Cây
kim đếm nhịp đồng hồ
Như
là đưa tiễn đến mồ ngày Xuân” (2019 Đối Mặt – TC- tr. 13)
Tiếp theo, trải dài, xuyên suốt hơn phân nửa tập thơ là
phần xướng họa “Cao Mỵ Nhân & Trịnh Cơ.
Hai thi nhân với hồn thơ lai láng cứ thế mà thoải mái vung bút trải vần,
xướng họa với nhau, chữ nghĩa giao duyên, ý tình hòa điệu, phát họa lên những
đường nét sống động, bừng sáng từng chữ từng câu trên từng trang sách gọi mời, khiến
cho người đọc mãi mê theo tiếp hết bài này sang bài khác, không thể dừng lại. Mời bạn hãy xem, bài Lục Bát 4 câu rất mượt
mà “Bên Đó” của Cao Mỵ Nhân gửi gắm những lời thương nhớ, lo âu, và nỗi buồn đến
thờ thẩn:
“Sao
mưa lại lạnh trời thu
Khiến
người bên đó thương ru bên này
Mưa
đêm thấm ướt hồn say
Người
bên đó ngó mưa bay thẫn thờ...” (Bên Đó - CMN – tr. 14)
Thì tiếp theo ngay, bài họa “Bên Này” của
Trịnh Cơ cũng làm cho trái tim ai trật nhịp:
“Giọt
mưa rỉ rả đêm Thu
Nhớ
người bên đó lời ru luống này
Mơ
màng trong giấc mộng say
Nửa
đêm nghe tiếng lá bay ơ thờ.” (Bên Này – TC – tr 15)
Thơ Lục Bát đã hay đến vậy, đọc những bài Đường Thi xướng
họa của hai nhà thơ lão thành càng khiến tôi như bị lạc vào “mê hồn trận.” Đọc
một hồi những bài thơ kế tiếp, tôi đột nhiên…nín thở, khi mắt chạm vào bài thơ
Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú “Mảnh Trăng Thơ” của thi
sĩ Cao Mỵ Nhân. Chỉ hai câu mở đầu thôi
đã có thể nói là tuyệt tác, và tôi bị chấn động tận tâm can, “Từ lâu, để mực
đọng nghiên vàng/Bút cũng âm thầm ngại điểm trang.” Một sự ví von tuyệt hảo!
Lời lẽ tuy đơn giản nhẹ nhàng nhưng thật thâm thúy, làm cho người đọc cảm nhận
được đây là những tiếng than xé lòng của kẻ cô đơn. Mực đã bị bỏ đọng bơ vơ ở
nghiên vàng, thì bút còn điểm trang để làm gì cơ chứ! Hai cặp đối cũng thật tuyệt
vời, nhưng tôi phải giữ lại để cho độc giả tự mình thưởng thức mới là thú vị. Chỉ xin chia sẻ cùng quý vị nơi đây hai câu kết,
vì hai câu này đã làm tăng thêm phần đặt sắc cho bài thơ. Bơ vơ thì mặc bơ vơ,
tác giả tự nhủ, ta cứ vui cứ đối bóng với thơ, để rồi còn tìm cách bay theo
trăng để đi xé nửa cái thiên đàng đã mất. Tự cổ chí kim, chỉ mới có Thi Tiên Lý
Bạch đời Đường bên Tàu nhảy xuống sông để vớt trăng lên, giờ đây lại có thi nữ
Việt là Cao Mỵ Nhân đòi theo trăng đi xé nửa cái thiên đàng. Những điều kỳ thú
ngoạn mục như vậy chỉ có những nhà thơ “siêu việt” mới tính làm, hoặc nghĩ ra!
“Thì
cứ cùng thơ vui đối bóng
Theo
trăng đi xé nửa thiên đàng.” (Mảnh Trăng Thơ – CMN – tr. 73)
Riêng bài họa của nhà thơ Trịnh Cơ
“Nhớ Cảnh Trường Xưa” trong trường hợp này, tuy không đáp ứng với ý nghĩa của
bài xướng, mà chỉ là họa nương vận, nhưng cũng phải kể là một bài họa hay. Trong khi bài xướng của Cao Mỵ Nhân chứa đầy
lãng mạn về tình yêu nam nữ, than thở với bút nghiên, với trăng và thơ, thương
mây khóc gió cho sự bơ vơ…, thì bài họa của Trịnh Cơ cũng tràn ngập sự nhớ
nhung tiếc nuối, nhưng mà là nhớ về tình yêu đất nước, về một thời được đào tạo
dưới mái trường quân đội với những bước chân “ắc ê” gọn gàng, và những chuyến hải
hành bảo vệ quê hương. Để rồi cuối cùng thi sĩ thốt lên tiếng than:
“Nước
non xả tắc thời vi diệu
Nay
chẳng còn đâu chốn địa đàng.” (Nhớ Cảnh Trường Xưa – TC – tr. 74)
Bài thơ Thất Ngôn Tứ Tuyệt vận trắc “Nỗi Buồn Vô Cớ” của
thi nữ Cao Mỵ Nhân dưới đây cũng đưa người yêu thơ vào một khung trời đầy mộng ảo,
“Có những nỗi buồn vô cớ lắm/Mà sao thổn thức đến trăm năm.” Đã làm người
thì ít nhiều gì ai cũng có những tâm sự thầm kín. Chắc độc giả sẽ đồng cảm
khi được nhà thơ “nói giùm” giải bày giùm cho những băng khoăn, những nỗi buồn
âm ỷ đang giấu giếm trong lòng, và sau cùng thì …xúi người ta thổ lộ:
“Thì
cứ tự nhiên ngồi thổ lộ
Tỏ
bày như chẳng có chi ngăn
Tỏ
bày tình tiết sầu thương đó
Khổ
luỵ trong tim nức nở thầm…” (Nỗi Buồn Vô Cớ - CMN – tr. 93)
Và để đáp lại nỗi niềm của thi nhân, Trịnh Cơ đã họa bài
“Buồn…Cũng Vậy Thôi” thật duyên dáng trữ tình, để
bày tỏ với đối phương, rằng thì là bên nớ chỉ có những nỗi buồn, nhưng bên ni
là cả vạn điều buồn, chúng cứ mãi đong đưa trên hố thẳm, rồi “Khi sầu khi
chán lại như câm” mà thi nhân không thố lộ nên nào ai hay biết,“Ta giữ
trong tim không hé lộ/Ai nào có biết
để can ngăn…”(Buồn…Cũng Vậy Thôi – TC) Đây quả thật đúng
là tri kỷ.
Đặc biệt, bài thơ thể tự do Ngũ Ngôn “Viết Sau 10:00 PM”
của Cao Mỵ Nhân cũng làm tôi xao xuyến. Nhà thơ đã trải lòng, trút cạn nhớ
nhung vào thơ lúc 10 giờ khuya, cùng tâm sự với những con chim biển cũng đang cô
đơn giữa màn đêm, và nghe được chúng thốt lên những tiếng kêu thầm hò hẹn trong
tuyệt vọng.
“Em
cũng như chim biển
Cô
đơn giữa thế gian
Chim
kêu thầm hò hẹn
Nỗi
u tình chứa chan…” (Viết Sau 10:00 PM – CMN – tr. 125)
Người ta nói “Thần giao cách cảm”
có lẽ chính xác nhất để dùng trong trường hợp này. Thì ra từ chốn xa xăm chàng thi nhân kia
cũng đâu có ngủ được lúc 10 giờ đêm. Ta hãy nghe Trịnh Cơ tâm sự cùng nàng thơ
nơi viễn xứ trong bài họa “Đêm Về”, “Tiếng chuông gõ 10 giờ/Sao cứ còn
thương nhớ,” và “trần tình” rằng vì thi sĩ vẫn còn yêu biển, yêu nguồn vui
thế gian, nên đã quên lời hẹn ước, tuy vậy tình yêu say đắm thì vẫn mãi chan
hòa:
“Ta
vẫn còn yêu biển,
Nguồn
vui giữa nhân gian,
Cứ
quên lời ước hẹn.
Tình
yêu vẫn hòa chan…” (Đêm Về - TC – tr. 127)
Qua nhiều năm cùng theo
đòi xướng họa trong các diễn đàn thơ, tôi đã thưởng thức đủ các thể loại mà nhà
thơ Cao Mỵ Nhân đã sáng tác. Bài thơ 8 chữ “Trái Tim Lửa” này cũng là một trong
các bài thơ tự do đặc sắc của thi nữ. Lúc này trái tim yêu của thi nhân hừng hực
bốc cháy vì tình, cho nên mặc kệ những chông gai, mặc kệ bao trở ngại, nàng thơ
chỉ thấy “Xuân sẽ đến bốn mùa đều tươi thắm/Đẹp hồn ta đang bốc cháy hoang
sơ.” Thông điệp gửi đi cho người trong mộng thật dạt dào, chất chứa ngập lụt
say mê, chờ đợi chỉ cần một tiếng hót khẽ của loài chim quý là sẽ được cả trái
tim nàng:
“Nhưng Chim Quí một
lần thôi hót khẽ
Ta
tặng người nguyên vẹn trái tim thơ...”(Trái Tim Lửa – CMN – tr 136)
Đáp lại khối tình “bốc lửa
bốc khói” này, chàng thi sĩ cũng đâu có kém. Bài họa “Về Nghe Cô Đơn” của Trịnh
Cơ càng chất chứa lắm nỗi niềm. Chàng còn “bạo gan” nhắc lại chuyện xưa, cái
thuở cùng nhau bàn tính “Chuyện ngày ấy bàn về ăn trái cấm/Ở Thiên Đường cây
đẹp, lá nghiêng chờ.” Nhưng cuối cùng rồi mấy lời trách cứ cũng được trao lại
cho ai kia:
Nhìn
xuống dưới, âm thầm rơi giọt lệ
Lụy
trần ai khiến ta phải ơ thờ
Quay
trở lại hầu nghe lời kể lể
Tình
bay xa, còn lại mấy câu thơ... (Về Nghe Cô Đơn – TC – tr.137)
Sự sắp xếp trong thi tập này thật là thú vị,
quá bán trong phần đầu là những bài thơ Cao Mỵ Nhân xướng – Trịnh Cơ họa. Đọc một hơi, thưởng thức hết phần đầu thì tiếp
theo phần sau đổi ngược lại Trịnh Cơ xướng – Cao Mỵ Nhân họa. Dòng thơ trữ tình, mượt mà, nhưng lại chất chứa
nhiều nỗi niềm riêng của thi sĩ Trịnh Cơ lâu nay cũng rất được các nhóm xướng họa
bạn bè chúng tôi yêu thích, không kém gì nữ sĩ Cao Mỵ Nhân. Thi sĩ Trịnh Cơ rất
“có duyên” với thơ tứ tuyệt, lời thơ giản dị không gút mắc, nhưng ý tứ rất
phong phú, làm xúc động người đọc, cho nên thơ của anh cũng đã được nhiều người
đáp họa. Bài thơ “Biết Đâu” đong đầy cảm xúc của Trịnh Cơ sau đây khiến những
người đang yêu phải chạnh lòng xót xa. Chàng cùng người ấy lâu lâu mới gặp một
lần, nhưng có nỗi đau nào hơn khi “Nụ hôn vừa dứt rồi ly biệt/Ở cuối chân trời
giấc mộng tan.” Sự xa cách như thế đã khiến cho nhà thơ e ngại. Chúng ta
hãy đọc những lời lo âu khắc khoải của chàng, “Đâu biết lần này sẽ gặp
nhau/Còn yêu tha thiết tựa ban đầu?” và:
“Hay
là hờ hững như người lạ
Để
lại cho anh cả mối sầu!” (Biết Đâu – TC – tr. 155)
Và thú
vị vô cùng, nàng thơ Cao Mỵ Nhân đã vội vàng đáp lại bài họa ngọt ngào, “Đành
Thôi” với những lời cảm thông, trần tình, vỗ về “ai kia,” bỡi vì không hợp mới
tan, “Kẻ ở người đi ôi giã biệt/Bởi không hợp được mới đành tan.” Và:
“Hoàng
hôn cũng nguội theo tình lạ
Tuổi
tác đầy thêm mộng mị sầu…” (Đành Thôi – CMN – tr. 156)
Bài thơ “Có Ai” của thi sĩ Trịnh Cơ
tiếp theo đây nói lên nỗi niềm cô độc làm cho người ta phải xót xa. Một người
có cuộc sống mà muốn “Nói chuyện... tâm tình chẳng có ai/Đêm đêm trằn trọc
suốt canh dài” thì quả là buồn vô kể. Lời thơ như nức nở, ý thơ như
trách móc ai đó sao nỡ đành “bỏ ta một mình,” và một chút ước mơ được có người
bên cạnh:
“Bởi
ta đang sống đời hiu quạnh
Thiếu
vắng ai bên cạnh, đỡ sầu.” (Có Ai – TC – tr. 157)
Tuyệt thay, đàng này bài “Có Ai” của
Trịnh Cơ than thở bị bỏ cô đơn, thì đàng kia, Cao Mỵ Nhân đã trải lòng cảm
thông thay cho “ai đó” của nhà thơ, bằng bài họa “Vẫn Ông” rất duyên dáng, thêm
chút dí dỏm, nhưng có thể thấy trong lời thơ ẩn hiện chút …hờn ghen nhè nhẹ rất
dễ thương. Bởi vì ngày xưa bay bướm quá, đa đoan quá, có cả chục giai nhân
quanh mình, cho nên bây giờ…ráng chịu chứ than thở mà làm chi:
“Giờ
thì đầu bạc trắng hơn xưa
Cả
chục giai nhân bỗng ngó hờ
Bởi
lẽ đa đoan nên khổ luỵ
Đâu
còn thanh thản mà làm ngơ”(Vẫn Ông – CMN – tr. 158)
Thi sĩ Trịnh Cơ từng là một sĩ quan
Hải Quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Bài thơ “Lời Cuối” của anh tôi đọc mà
rưng rưng cảm phục. “Tôi chết đi… xin chớ phủ cờ.” Đây là lời di chúc, dặn
lại khi thi sĩ mất đi thì không nên phủ cờ Quốc Gia như bao người vẫn làm lâu
nay nơi hải ngoại. Dù vận nước đảo điên
là do thế cuộc tạo nên, chứ quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa chúng ta thuở ấy
vẫn một lòng chiến đấu rất anh dũng, thi sĩ vẫn cho rằng mình không làm tròn
viêc giữ nước nên không xứng đáng, mà chỉ có những người vị quốc vong thân
mới xứng đáng được phủ cờ:
“Phủ
cờ cho kẻ đáng tôn vinh
Ngã
gục thân trai, hiến phận mình
Bỏ
mạng sa trường cho đất nước
Đã
bao cay đắng lúc đăng trình…” (Lời Cuối – TC – tr. 169)
Nhà thơ Cao Mỵ Nhân cũng từng là một
sĩ quan QLVNCH. Cho nên bài họa “Vàng Sắc Nhớ” của chị là một đồng cảm, kiêm ý
trách móc những kẻ đã bỏ lại thành xưa bóng cờ tổ quốc, nhưng rồi lại quên bẳng
đi, để mãi lơ ngơ với dáng vẻ phạc phờ của người không biết đâu là quê hương.
Dù ai có quên, nhưng nhà thơ thì vẫn nhớ, vẫn giữ lại vuông cờ khi giã từ trận
mạc:
“Giã
từ trận mạc giữ vuông cờ
Hiu
hắt vàng hong nắng nhuộm tơ
Bạn
hỏi buồn thương xa đất tổ
Chứa
chan tình nghĩa chẳng phai mờ...” (Vàng Sắc Nhớ - CMN – tr.170)
Bài thơ Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú
của nhà thơ Trịnh Cơ “Tàn Đông” là một bài thơ buồn, nhưng chữ nghĩa lại xôn
xao tràn đầy cảm xúc. Đó là nỗi u buồn bất chợt, chính thi sĩ cũng “Không
biết vì đâu cảm thấy buồn.” Hai câu thực đã làm cho hồn tôi xao xuyến.
Cái hình ảnh sống động trước mắt với đàn chim rét mướt bay vật vờ về tổ, và con
suối thì chênh chao khi nhớ lại cội nguồn, diễn tả một tâm trạng đau thương khiến
cho những kẻ ly hương, tan tác vì mất nước như tôi càng thêm nhức nhói cả cõi
lòng:
“Đàn
chim rét mướt bay về tổ
Con
suối chênh chao nhớ lại nguồn”(Tàn Đông – TC – tr. 185)
May mắn thay, nhà thơ Cao Mỵ Nhân
đã…cứu bồ bằng bài họa “Paris Buồn” giúp tôi có thêm “sinh khí,” tươi tắn lên một
chút để tôi khỏi “đổ thừa” thi sĩ Trịnh Cơ đã làm cho lòng tôi héo úa khi sắp kết
thúc bài viết này. Cao Mỵ Nhân đã an ủi
“người ta” là tại vì Paris quá lãng mạn mới khiến cho buồn, chứ thực ra thì mùa
đông đã tàn, tuyết cũng tan chờ Xuân đến:
“Chim
én mừng xuân tươi sắc cội
Tao
nhân đón khách lộng thơ nguồn..” (Paris Buồn – CMN – tr. 186)
Tới đây thì tôi xin phép được tạm dừng
vì bài viết đã khá dài. Thực ra thì còn nhiều, nhiều lắm những bài tình thơ có
thể nói là tuyệt tác trong thi phẩm “Xướng Họa” của nhị vị Cao Mỵ Nhân và Trịnh
Cơ. Điều tôi muốn nói ở đây là “cặp bài
trùng” này quá ư tuyệt vời trong các thể thơ xướng họa. Họ đã quá hoà hợp, quá
“nhập vai,” nhâp vai trong việc trải lòng như là tâm sự của chính một đôi trai
tài gái sắc từng yêu nhau, bị trắc trở, và rồi khi gặp lại thì đã muộn màng
nhưng hồn thơ vẫn còn réo rắc, chứa đựng ngập tràn nỗi nhớ, niềm thương. Cho
nên xuyên suốt thời gian từng bước đọc thơ và ghi lại cảm nhận của mình, Phương
Hoa tôi cũng đã “nhập vai” trong cái cảm xúc họ là “một đôi” thật sự. Nếu sự thật
hai người trước đây chưa từng yêu nhau, chưa bao giờ quen biết nhau, mà đây chỉ
là “bình thủy tương phùng” trên những dòng thơ xướng họa nơi hải ngoại rồi trở
thành bạn thiết, thì quả là thi tài của họ đã lên đến đỉnh cao, nguồn tình thơ
quá lai láng dạt dào.
Cuối
cùng, thi tập “XƯỚNG HỌA” của hai nhà thơ Cao Mỵ Nhân và Trịnh Cơ là một tác phẩm
văn học có giá trị, chẳng những rất đáng đọc, mà cần phải đọc thật kỹ mới thưởng
thức hết những cái hay cái đẹp cái ý cái tình của mỗi một bài thơ. Tôi tin rằng
quý vị sẽ thích thú với sự phong phú chữ nghĩa của những bài thơ tình thật ngọt
ngào, thật lãng mạn, trong tập thơ này.
Xin
trân trọng kính giới thiệu cùng với quý độc giả thi tập “XƯỚNG HỌA” của Cao Mỵ
Nhân & Trịnh Cơ.
Muốn mua sách Xin Liên lạc Tác giả:
Trịnh
cơ - Cao Mỵ Nhân
Liên
lạc Nhà xuất bản:
Nhân
Ảnh
(408)
722-5626
Phương Hoa – Miền Bắc California, tháng 7, 2020
MỜI ĐỌC TIẾP THƠ XƯỚNG HỌA CAO MỴ NHÂN
& PHƯƠNG HOA BÊN DƯỚI
******************************************
ĐỐI
NGUYỆT
(1 X 12
thể sáng tạo “Thuận Nghịch Độc” - Kính họa bài “Mảnh Trăng Thơ” của thi
tỷ Cao Mỵ Nhân)
MẢNH TRĂNG THƠ
(Bài xướng)
Từ lâu, để mực đọng nghiên vàng
Bút cũng âm thầm ngại điểm trang
Một nét ngọc phai thành lạc điệu
Bao lời châu nhạt lỡ tan hàng
Dẫu xuân còn đứng chờ hoa nở
Hay hạ đang ngồi đợi nắng sang
Thì cứ cùng thơ vui đối bóng
Theo trăng đi xé nửa thiên đàng.
Cao Mỵ
Nhân
1.
Bài Họa chính:
ĐỐI NGUYỆT
(Thuận độc)
Phương Hoa
Thinh không vọng tiếng khóc trăng vàng
Sắc nhạt hương nhoà héo nét trang
Tinh tú quay cuồng châu giọt giọt
Mắt môi mờ đẫm lệ hàng hàng
Tình đau vợi vợi chờ Xuân tới
Luyến nhớ trùng trùng đợi Hạ sang
Minh ửng nguyệt soi sầu xoả tóc
Linh lung tỏa bóng rọi bên đàng
2.
Nghịch độc:
NGUYỆT SẦU
Đàng bên rọi bóng tỏa lung linh
Tóc xỏa sầu soi nguyệt ửng minh
Sang Hạ đợi trùng trùng nhớ luyến
Tới Xuân chờ vợi vợi đau tình
Hàng hàng lệ đẫm mờ môi mắt
Giọt giọt châu cuồng quay tú tinh
Trang nét héo nhòa hương nhạt sắc
Vàng trăng khóc tiếng vọng không thinh
3.
Cắt 2 chữ đầu mỗi câu trong bài họa,
thành bài ngũ ngôn:
KHÓC TRĂNG
Vọng tiếng khóc trăng vàng
Hương nhoà héo nét trang
Quay cuồng châu giọt giọt
Mờ đẫm lệ hàng hàng
Vợi vợi chờ Xuân tới
Trùng trùng đợi Hạ sang
Nguyệt soi sầu xoả tóc
Tỏa bóng rọi bên đàng
4. Cắt
2 chữ cuối mỗi câu trong bài họa, đọc ngược thành bài ngũ ngôn 2:
ĐỢI CHỜ
Rọi bóng tỏa lung linh
Sầu soi nguyệt ửng minh
Đợi trùng trùng nhớ luyến
Chờ vợi vợi đau tình
Lệ đẫm mờ môi mắt
Châu cuồng quay tú tinh
Héo nhòa hương nhạt sắc
Khóc tiếng vọng không thinh
5. Cắt
3 chữ cuối mỗi câu trong bài họa, thành bài thơ 4 chữ:
BÓNG LẺ
Thinh không vọng tiếng
Sắc nhạt hương nhoà
Tinh tú quay cuồng
Mắt môi mờ đẫm
Tình đau vợi vợi
Luyến nhớ trùng trùng
Minh ửng nguyệt soi
Linh lung tỏa bóng
6. Cắt
3 chữ cuối mỗi câu trong bài họa, chuyển ngược dưới lên thành bài thơ 4 chữ thứ
2:
NHẠT NHÒA
Bóng tỏa lung linh
Soi nguyệt ửng minh
Trùng trùng nhớ luyến
Vợi vợi đau tình
Đẫm mờ môi mắt
Cuồng quay tú tinh
Nhòa hương nhạt sắc
Tiếng vọng không thinh
7. Cắt
3 chữ đầu mỗi câu trong bài họa, thành bài thơ 4 chữ thứ 3:
SẦU XỎA TÓC
Tiếng khóc trăng vàng
Nhoà héo nét trang
Cuồng châu giọt giọt
Đẫm lệ hàng hàng
Vợi chờ Xuân tới
Trùng đợi Hạ sang
Soi sầu xoả tóc
Bóng rọi bên đàng
8. Cắt
3 chữ đầu mỗi câu trong bài họa, chuyển ngược dưới lên thành bài thơ 4 chữ thứ
4:
CHÂU RƠI
Đàng bên rọi bóng
Tóc xỏa sầu soi
Sang Hạ đợi trùng
Tới Xuân chờ vợi
Hàng hàng lệ đẩm
Giọt giọt châu cuồng
Trang nét héo nhòa
Vàng trăng khóc tiếng
9. Cắt
4 chữ đầu mỗi câu của bài họa, thành bài thơ 3 chữ:
HÉO HON
Khóc trăng vàng
Héo nét trang
Châu giọt giọt
Lệ hàng hàng
Chờ Xuân tới
Đợi Hạ sang
Sầu xoả tóc
Rọi bên đàng
10. Cắt 4 chữ cuối mỗi câu trong bài họa, ngược từ
dưới lên thành bài thơ 3 chữ thứ 2:
TRÙNG TRÙNG LUYẾN NHỚ
Tỏa lung linh
Nguyệt ửng minh
Trùng nhớ luyến
Vợi đau tình
Mờ môi mắt
Quay tú tinh
Hương nhạt sắc
Vọng không thinh
11. Dùng
3 chữ đầu trong câu 8 của bài họa chính “thuận độc (bài 1) đảo ngược lại rồi
thay cho 3 chữ cuối của câu 1, bài 1, và tiếp tục hoán đổi từ dưới lên cho đến
hết 8 câu, thành một bài thất ngôn bát cú khác:
TINH TÚ QUAY CUỒNG
Thinh không vọng tiếng tỏa lung linh
Sắc nhạt hương nhoà nguyệt ửng minh
Tinh tú quay cuồng trùng nhớ luyến
Mắt môi mờ đẫm vợi đau tình
Tình đau vợi vợi môi mờ mắt
Luyến nhớ trùng trùng quay tú tinh
Minh ửng nguyệt soi hương nhạt sắc
Linh lung tỏa bóng vọng không thinh
12. Dùng
3 chữ đầu trong câu 8 của bài “nghịch độc” (bài 2), đảo ngược lại rồi thay cho
3 chữ cuối của câu 1, bài 2, và tiếp tục hoán đổi từ dưới lên cho đến hết 8
câu, thành bài thất ngôn bát cú khác thứ 2:
VÀNG TRĂNG
Đàng bên rọi bóng khóc trăng vàng
Tóc xỏa sầu soi héo nét trang
Sang Hạ đợi trùng châu giọt giọt
Tới Xuân chờ vợi lệ hàng hàng
Hàng hàng lệ đẫm chờ Xuân tới
Giọt giọt châu cuồng đợi Hạ sang
Trang nét héo nhòa sầu xỏa tóc
Vàng trăng khóc tiếng đợi bên đàng
ENJOY CHỊ MỴ!!
**Cám ơn chị Cao Mỵ Nhân đã cho bài xướng
“Mảnh Trăng Thơ” quá tuyệt vời giúp Phương Hoa em có cảm hứng sáng tác, sáng tạo, ra 12 bài
thơ thuận nghịch độc này.
Phương Hoa – Apr 18th 2020