MIMOSA
Tiểu-Thu
May mà
một tuần sau ngày bãi trường My mới bị bệnh. Không biết con bé ăn phải món gì
hay lây ở đâu mà bị thương hàn, người ngợm chỉ còn da bọc xương. Mái tóc chấm
vai óng mượt ngày nào bây giờ le hoe, xơ xác. Nhìn vào gương con bé còn không
nhận ra mình! Mẹ cứ vuốt đầu con gái mà xót xa. Điều khổ nhất là My thèm ăn đủ
thứ, nhưng chỉ được húp cháo hoặc nước súp. Mẹ nói ăn cơm vào là thủng ruột tức
thì. Ba cũng kể, ngày xưa cô Út của My năm lên bảy bị thương hàn. Lúc khỏi bệnh,
bà nội vì dốt, cứ ép cô Út ăn cơm, vài hôm sau cô chết vì bị thủng ruột. Ông nội
khóc quá chừng, dòng họ đã hiếm con gái, mà cô Út lại đẹp nhất trong số tám người
con. My nghe xong, sợ chết nên ráng húp cháo (đôi khi còn chan thêm nước mắt mới
là thảm sầu!).
Còn cả
tháng nữa mới tựu trường nên ba mẹ bàn nhau cho My lên Đà Lạt dưỡng bệnh. Dì
Hai của My theo chồng lên trên ấy cả chục năm nay. Dượng Hai là công chức đổi
lên làm việc ở Tòa Thị Trưởng. Mẹ sẽ dẫn My lên Đà Lạt, ở chơi với dì ít hôm rồi
về. My ở lại độ ba tuần để hưởng không khí trong lành, mát mẻ của xứ hoa
đào.
Vì là
lần đầu đi trên con đường này nên mọi thứ đều rất mới mẻ lạ lùng đối với My.
Hai hòn đá chồng ở Định Quán khiến con bé hơi rét, thầm nghĩ “nó” mà rớt xuống
thì mấy cái nhà phía dưới chắc sẽ dẹp lép như cái bánh tráng! Những đồi trà
ngút ngàn, thẳng tắp chạy vào tận chân núi xa xa, thấp thoáng từng đoàn phụ nữ
mang giỏ hái trà, toàn bộ đẹp như một bức tranh thủy mạc.
Xe đò
ngừng tại Bảo Lộc cho hành khách dùng cơm trưa. Mẹ kêu một đĩa cơm sườn nướng
thơm phức. Phần My thì mẹ đã chuẩn bị sẵn một hộp cơm nhão gần như cháo đặc ăn
với ruốc! Thấy bộ mặt ỉu xìu của con gái, mẹ an ủi ráng kiêng cữ thêm ít hôm nữa
sẽ được ăn uống bình thường. Xe qua khỏi Di Linh là không khí thay đổi hẳn. My
cảm thấy mát mẻ khỏe khoắn hẳn ra và xe cũng bắt đầu lên dốc, có những chỗ con
đường ngoằn nghoèo như ruột gà. Càng lên cao, thông hai bên đường càng nhiều,
không khí thơm ngát mùi nhựa thông. My không dám nhìn ra cửa sổ, vì xe chạy
trên cao, một bên là vực thẳm, sâu hun hút phía dưới. Mỗi lần hai chiếc xe ngược
chiều qua mặt nhau là con bé thấy thót cả ruột vì sợ!
Ba đã
đánh điện báo trước nên dì sáu ra tận bến xe đón. My thấy càng ngày dì càng đẫy
đà. Tuy ngoài bốn mươi mà da mặt dì không một nếp nhăn, trắng mịn rất đẹp. Mẹ
thua dì hai tuổi, nhưng cái nắng gay gắt của Sài Gòn khiến mẹ trông già hơn dì
chút xíu. Nhà dì Hai là một căn biệt thự xinh xắn nằm gần cuối đường Phan Đình
Phùng. Không phải nhờ số lương công chức của dượng hai, mà chính nhờ cửa tiệm
bán phụ tùng và sửa xe gắn máy của dì mới có tiền mua căn biệt thự này. Dì vốn
có tay buôn bán nên khách hàng rất đông. Qua khỏi cánh cửa sắt ngoài cổng là một
khoảng sân trồng rất nhiều hoa. Trong góc vườn, sát hàng rào có một cây khá
cao, nở từng chùm hoa vàng rực rỡ, sau này My mới biết tên là Mimosa. Trong những
ngày còn ở Đà Lạt, chị Trúc đèo My đi chơi trên những con đường dẫn vào những
làng mạc xa xa, nơi có vườn trồng nhiều trái cây như mận, dâu. Những công rẫy
trồng đủ thứ rau đã làm nên danh tiếng "Rau Đà Lạt" lẫy lừng. Dọc hai
bên đường, My thấy nhiều ơi là nhiều những đóa hoa màu vàng. Những đóa hoa này
vừa giống hoa cúc lại từa tựa hoa quỳ. Thân cây cao khỏi đầu người cho hoa chi
chít, làm nên hai hàng rào thiên nhiên rực rỡ vàng. My cũng hỏi chị Thanh Trúc,
chị bảo đó là Dã Quỳ. Chao ơi, cái tên thật là đẹp và hoa cũng thật là đẹp. Từ
đó bỗng nhiên My đâm ra yêu nhất hoa Dã quỳ. Tại My thấy loài hoa này có chút
gì đó hoang dại chứ không kiêu sa như hồng, như lan, cũng không "tiểu
thư" cổ điển như những loại cúc thường.
Dì dượng
có ba người con. Chị Thanh Mai lớn nhất đã lập gia đình và theo chồng xuống Nha
Trang. Anh Minh học trường Trần Hưng Đạo. Anh vừa đậu Tú tài hai, khóa tới đây
sẽ xuống Sài Gòn học Kỹ Sư Phú Thọ. Chị Thanh Trúc sẽ lên lớp Đệ nhị trường
trung học Bùi Thị Xuân. Hai năm rồi My không gặp anh chị, từ sau đám cưới chị của
My, con bé nghĩ chắc họ thay đổi nhiều lắm. Quả thật, nghe tiếng chó sủa, một
thanh niên cao lớn từ trong nhà chạy ra. Anh chàng cười thật tươi, lên tiếng
chào dì Ba, rồi quay qua My, nheo mắt:
- My
còn nhớ anh Minh không? Ủa, sao ốm nhom vầy nè!
Con bé
chỉ biết cười bẽn lẽn, mẹ phải lên tiếng:
- Em
nó bị thương hàn cả tháng nay nên dì mới đem nó lên đây dưỡng bệnh đó
cháu.
- Vậy
mà cháu có biết gì đâu. Bảo đảm ở đây một thời gian là bé My sẽ mập mạp trở lại.
Để cháu xách valy cho dì.
Phòng
khách nhà dì Hai rộng, chưng bày trang nhã. Phòng ăn có chiếc bàn dài với tám
chiếc ghế. Bàn ghế bằng gỗ cẩm lai chạm trổ tinh xảo. Nhà có bốn phòng ngủ. Chị
người làm ngủ ở căn phòng nhỏ cạnh nhà bếp. Phía sau vườn trồng rau, cải. Có
hai cây mận và một giàn su su.
Dì cho
biết Thanh Trúc phải ra tiệm thế dì bữa nay. Căn phòng dành cho mẹ con My nhìn
ra bên hông nhà. Sát tường rào có mấy gốc hồng đang trổ hoa. Khóm màu vàng,
khóm màu hồng nhạt, nhưng My thích nhất là cụm hồng màu đỏ san hô. Con bé vốn
thích những màu tươi thắm.
My mệt
quá nên ngủ một giấc ngon lành cho tới khi mẹ đánh thức dậy ăn cơm tối. Dượng
Hai vẫn vậy, nhưng chị Trúc thì thay đổi rất nhiều. Da mặt mịn màng, hai má hồng
tự nhiên chớ không còn mụn đầy như hai năm trước. Chị cao hơn và mái tóc cũng
dài hơn xưa. Dưới mắt của con bé My mười ba tuổi thì chị Trúc rất đẹp. Thấy My
từ trong phòng đi ra, Thanh Trúc chạy lại nắm tay, ngắm con bé từ trên xuống dưới
rồi kêu lên:
- Trời
đất, nghe nói em bị bệnh, không ngờ lại ốm nhom ốm nhách như vầy. Không sao, dì
Ba cứ để em My lại đây, cháu bảo đảm vài tuần nữa là My sẽ thành... bé bự
Michelin cho dì coi. Khí hậu trên này tốt lắm.
Chiều
nay My được ăn cháo gà. Trời lành lạnh, sau một giấc ngủ không mộng mị, My đói
bụng nên ăn thật ngon lành. Mẹ vui lắm. Chị em lâu ngày mới gặp nên chuyện trò
như bắp rang. Ăn xong Thanh Trúc kéo My vô phòng. Con bé choáng ngợp trước những
màu xanh trong phòng cô chị. Rèm cửa màu xanh lơ, khăn trải giường, áo gối màu
xanh hồ thủy, thậm chí cái mền bằng len cũng xanh rêu luôn. Trước cặp mắt tò mò
của cô em họ, Thanh Trúc cười:
- Tên
chị có nghĩa là cây trúc xanh đó nhỏ. Vì vậy chị thích màu xanh lắm.
Sau
này My còn biết lúc nhỏ, chị Trúc hay bị tụi
nam sinh chọc ghẹo:
Trúc
xinh Trúc mọc đầu đình.
Em
xinh ...
Những câu sau cứ bị “cải biên” nham nhở nên đôi khi
Thanh Trúc tức đến phát khóc! Tên của người ta hay như vậy mà bị đem làm trò cười!
Mẹ chỉ
ở chơi có ba hôm là phải trở về Sài Gòn. Sợ ba ở nhà ăn uống thất thường, sợ
anh Trung không ai nhắc nhở sẽ theo bạn bè đi chơi mút mùa. Mẹ lo, lo, lo...
như tất cả những người vợ, người mẹ Việt Nam khác. Dì Hai thở dài, chẳng mấy
khi em có dịp lên chơi mà không ở lâu lâu một chút! Chả là dì lấy chồng sớm nên
chị em xa nhau cũng sớm!
Ba tuần
ở Đà Lạt là thời gian đẹp nhất của My. Con bé được anh Minh và chị Trúc dẫn đi
chơi khắp nơi và chụp rất nhiều ảnh kỷ niệm. Thác Prenn hùng vĩ, Hồ Than Thở êm
đềm, thơ mộng. Chuyện tình bi thảm của hai nấm mộ nơi đây khiến trái tim non nớt
của My bồi hồi cả buổi. Chị Trúc dẫn My đi ăn mì Quảng và chè đậu ván bên hông
chợ Đà Lạt. Những thứ này ở Sài gòn con bé chưa bao giờ được ăn nên thấy ngon
miệng lạ lùng. Mì Quảng không giống chút xíu nào với những thứ mì mà My đã được
ăn như mì hoành thánh, mì vịt tiềm... Nghe chị Trúc nói loại mì này là món đặc
sản của vùng Quảng Nam . Mà thật vậy,
nhìn tô mì Quảng được người chạy bàn đặt xuống trước mặt, My không khỏi ngạc
nhiên khi nhìn thấy trong tô mì, ngoài những sợi mì dẹp dẹp, còn được tô điểm
vài con tôm nho nhỏ cùng vài lát thịt heo. Ngoài ra còn có rau húng lủi, rau quế,
hoa chuối thái mỏng, sà lách, vài lát ớt xanh, bánh tráng mè nướng, và đậu phụng
rang giã nhỏ. Nước chỉ chan chút xíu chứ không nhiều như những loại mì thông
thường. Nhưng mà ngon lạ lùng. Trước khi về Sài Gòn, My còn xin chị Trúc cho trở
lại ăn lần nữa cho đã thèm. Rau cải ở xứ này thì tươi ngồn ngộn mà lại rẻ rề.
Hoa thì vô số. Muôn màu muôn vẻ. Nhớ cái hôm My hỏi tên những chùm hoa vàng trước
sân nhà, chị Trúc nói là hoa Mimosa, rồi chị reo lên:
- À,
Mimosa có chữ Mi. Từ đây chị sẽ gọi My là Mimosa...hay quá! Vậy là bỗng dưng My
có cái biệt danh Mimosa. Con bé nghĩ thầm, về lại Saigòn, kể cho đám bạn nghe,
có khối đứa ganh tị với My vì cái biệt danh diễm lệ này cho coi.
Chị
Trúc dẫn My lên trường của chị cho biết. Trường Bùi Thị Xuân có hai dãy lầu đối
diện nhau, cách một khoảng sân rộng. Nữ sinh ở đây nổi tiếng là đẹp. Đứng ở cổng
trường nhìn thẳng qua rặng núi LangBian bốn mùa mây phủ đẹp mơ màng. Mỗi ngày
chị Trúc phải leo lên con dốc, ngang qua ngôi Chùa Linh Sơn cổ kính để đến trường.
Có lẽ nhờ leo đồi xuống dốc hàng ngày mà các cô gái Đà lạt cô nào cũng ngực nở
eo thon, thân hình lý tưởng. Cũng chẳng cần thoa kem kiếc lôi thôi, cô nào cô nấy
làn da cứ trắng mịn như nhung, đôi má hồng tự nhiên không khác những cánh hoa
anh đào, năm nào cũng nở rộ dọc theo hai bên bờ hồ Xuân Hương mỗi độ Xuân về.
Anh
Minh có người yêu tên Thục Anh. Cô nàng học lớp seconde bên Lycée Yersin. Thục
Anh cắt tóc tém, mặc đầm. Chị chạy chiếc xe đạp mini màu trắng mỗi lần tới
chơi. Chị nói chuyện liếng thoắng, cười luôn miệng, đôi khi lại xổ tiếng tây với
anh Minh. My có cảm tình với Thục Anh, nhưng dì Hai thì chê con nhỏ "đầm"
quá. Dì thích con gái phải dịu dàng hơn. Thanh Trúc nói nhỏ với My là mẹ sợ sau
này khi lấy nhau, Thục Anh sẽ “ăn hiếp” anh Minh! Nhưng anh Minh yêu Thục Anh lắm.
Anh đã từng cầm đàn guitard gẩy từng tưng và ca ông ổng: Đời tôi chỉ yêu có một
người...và Thục Anh ngó bộ rất cảm động. Nhưng anh Minh còn phải học bốn năm nữa
mới ra trường. Ở đời chuyện gì cũng có thể xảy ra. Một mối tình học trò biết có
bền vững với thời gian? Người ta nói xa mặt cách lòng, huống hồ Sài Gòn hoa lệ
lại dập dìu tài tử giai nhân...
Anh Tuấn
là bạn trai của chị Thanh Trúc. Anh học Chính Trị Kinh Doanh bên Viện Đại Học
Đà Lạt. Anh hơn chị Trúc ba tuổi, bố anh là đồng nghiệp của dượng Hai. Anh Tuấn
đẹp trai, dáng người thanh nhã nhưng ít nói. Thường thường chỉ nhìn chị Trúc
nói rồi cười. Tuần lễ đầu My không gặp Tuấn vì anh đi Nha Trang thăm ông bà nội.
Anh Tuấn về đem biếu nhà dì sáu bao nhiêu là quà, nào tôm, nào cua, cá biển.
Nhưng My thích nhứt món mực khô. Buổi tối nướng lên rồi đập cho tơi ra, mấy anh
em ngồi nơi bộ ghế mây đằng sau vườn, vừa ăn mực nướng chấm tương ớt vừa nói
chuyện quên thôi. Có hôm anh Minh kể cho My nghe chuyện con ma ở căn biệt thự
màu trắng nằm trên đồi nhìn xuống hồ Xuân Hương, làm con bé không dám ngủ một
mình, phải xách gối qua xin tị nạn bên phòng chị Thanh Trúc. Hôm sau dì Hai rầy
anh Minh lớn đầu rồi mà còn bày đặt hù con nít! Buổi tối anh Tuấn đến chơi, My
hỏi chuyện đó có thật không, anh cười bảo là anh cũng chỉ nghe nói chớ chưa được
diện kiến con ma nên không thể trả lời là có hay không!
Hít thở
không khí trong lành, ăn rồi đi chơi, đêm nào cũng ngủ một giấc quên cả trời đất,
nên chỉ hai tuần sau là mặt mày con bé đã thấy phinh phính. Mái tóc cũng óng ả
hơn. Thanh Trúc nói đùa chỉ còn một tuần lễ để “vỗ béo” bé My. Phải làm sao cho
dì dượng Ba không nhận ra con gái mình nữa mới là tài. Sáng nào Thanh Trúc cũng
ép My ăn một khúc bánh mì trét bơ có phết một
lớp mứt dâu, cộng thêm một ly sữa nóng. Con bé vỗ cái bụng căng phồng
kêu lên chị Trúc ơi, em ú nu, sắp thành con heo rồi đây nè! Chị Trúc cười, My
tuổi Hợi, không thành con heo vậy muốn thành con chuột hả. My dẫy nẩy nói không
không, em chúa là sợ chuột!
Chúa
Nhật, ăn trưa xong, chị Trúc rủ My ra nhà sách Hòa Bình mua báo. Hai chị em từ trong tiệm đi ra chợt thấy anh Tuấn
cùng với một người con gái rất đẹp mặc đầm, cũng từ trong tiệm phở Đắc Tín đi
ra. Cô gái quàng tay anh Tuấn có vẻ thân mật. Họ nói chuyện với nhau rất vui vẻ, lên xe Vespa
của anh Tuấn phóng đi, không nhìn thấy chị em My. Mặt chị Trúc sa sầm như bị phủ
một áng mây đen. Thay vì mua báo xong hai chị em sẽ đi ăn kem, nhưng chị Trúc
kêu nhức đầu muốn về. My biết tỏng cái nguyên nhân của bệnh nhức đầu bất thình
lình này nên cũng yên lặng đi theo chị. Về nhà chị Trúc không nói không rằng đi
thẳng vô phòng. My biết chị đang giận anh Tuấn nên cũng không dám nói năng gì,
đi về phòng dở báo Tuổi Xanh ra đọc. Buổi chiều chị Trúc ăn có nửa chén cơm rồi
lại vào phòng, mặt buồn rười rượi. Dì hỏi chị có bệnh không thì chị lắc đầu. My
biết lý do nhưng đời nào dám xì ra cho mọi người hay.
Khoảng
bảy rưỡi anh Tuấn đến chơi. Nghe tiếng xe Vespa của anh, chị Trúc vội vàng qua
phòng nhờ My ra nói với anh Tuấn là chị nhức đầu, không tiếp anh được. Nghe chị
Trúc bị nhức đầu, anh Tuấn có vẻ lo lắm, hỏi My lung tung. Con bé thấy tội, tự
hỏi không biết có nên nói thật với anh hay không? Sau cùng thấy anh lo lắng,
dùng dằng không muốn về, My đành nói mí mí là hồi trưa hai chị em đứng bên nhà
sách Hòa Bình thấy anh từ trong tiệm phở Đắc Tín đi ra... Anh Tuấn ngẩn người
ra ít phút, như chợt hiểu anh kêu lên:
- Chết
anh rồi! Có phải hai người thấy anh đi với một cô gái?
My gật
đầu. Anh Tuấn vò đầu bứt tai:
- Oan
cho anh quá. Cô đó là con ông chú anh vừa mới ở Sài Gòn lên chơi. Thúy Hương muốn
anh chở đi ăn phở. Anh đâu có ngờ hai em đứng bên tiệm sách! Tối nay anh định tới
rủ hai em ngày mai đi chơi với anh và Thúy Hương. Tụi mình sẽ đi picnic ở Thung
lũng Tình Yêu. Thiệt tình!... Suy nghĩ một hồi anh nói: bây giờ My làm ơn vô
nói rõ chuyện này với chị Trúc giùm anh được không? Chắc chị sẽ hết giận
anh.
My gật
đầu, nói anh chờ chút rồi đi vào phòng chị Trúc ráp bo y chang những gì đã nghe
và không quên tả oán thêm rằng anh Tuấn buồn lắm, mặt ỉu xìu như cái bánh tráng
bị nhúng nước! Thanh Trúc nghe xong có vẻ dịu xuống một chút, nhưng bỗng xí lên
một tiếng, nói My trở ra hỏi tại sao anh Tuấn không “thông báo” với chị chuyện
cô em họ của anh lên chơi, để chị “bắt gặp” rồi mới nói? Như vậy là anh...
gian!
Anh Tuấn
nghe xong thì kêu trời, nói chính anh cũng không biết, Thúy Hương theo chú anh
đi công tác trên này có năm ngày mà thôi. Anh định ngày mai sẽ giới thiệu hai
người với nhau, không ngờ... nói xong anh thở dài, gãi đầu gãi tai... My nói
anh đợi rồi lại chạy trở vô phòng cô chị năn nỉ giùm. Lần này Thanh Trúc mới chịu ra gặp người yêu. Tuấn mừng quá chạy
lại nắm tay nhưng Trúc giựt tay lại, chu mỏ cật vấn:
- Anh
em họ mà sao hai người khoác tay nhau thân mật quá vậy? giống như
là...là...
- Tại
Thúy Hương học trường tây nên tự nhiên như vậy đó. Em có muốn anh thề...
- Thôi
lần này em tha cho anh. Vừa nói Thanh Trúc vừa háy người yêu, cặp mắt có
đuôi...
My thở
phào nhẹ nhỏm. Vậy là trời quang mây tạnh, cuộc đời trở lại màu hồng!
Trước
ngày về lại Sàigòn My buồn quá. Ba tuần ở Đà Lạt qua nhanh như một giấc mơ.
Nhưng giấc mơ dù có đẹp đến đâu thì cũng phải thức giấc. My sẽ về lại Saigòn với
anh Minh. Chị Mai Khanh của My đi lấy chồng nên phòng của chị bỏ trống từ hai
năm nay. Anh Minh sẽ ở nhà My để đi học. Dì Hai và Thanh Trúc mua không biết cơ
man nào là đồ cho My đem về Saigòn. Rượu dâu, mứt dâu, khoai lang mật phơi khô
(món này My có thể “gặm” quanh năm không hề chán!). Một gói khô nai to tướng
cho ba My nữa chứ. Anh Tuấn tặng My một tấm bản gỗ để bàn hình bầu dục. Chính
giữa khắc chữ MYMOSA (thay vì Mimosa với i ngắn) thật bay bướm. Góc trên khắc
chùm hoa mimosa vàng rực rỡ, góc dưới khắc hình một chú nai vàng ngơ ngác. Anh
Tuấn thật đáng yêu! Chị Thục Anh, dù đang buồn thúi ruột vì sẽ phải xa anh
Minh, cũng đi mua tặng bé My một chiếc gùi con con thật xinh xắn do đồng bào
Thượng đan. My an ủi chị bằng cách hứa sẽ chăm sóc thật tốt cho anh Minh. Chị
Thục Anh ghé tai My nói nhỏ "cần nhất là My canh chừng, không cho anh Minh
quen thân với cô nào nhé." My gật đầu nheo mắt với chị ra cái điều em hiểu
tâm sự của chị rồi.
...
Sáng sớm hôm đó, sương mù còn giăng đầy trên những rặng thông xanh, la đà trên
mặt hồ Xuân Hương như mây như khói, cả nhà đã đưa anh Minh và My ra bến xe. Chị
Thục Anh cũng đạp xe ra tiễn anh Minh. Dì Hai căn dặn con trai đủ thứ. Minh cười,
ôm mẹ hôn chụt vào má, nói:
- Má
làm như con xuất ngoại không bằng. Đà Lạt – Sàigòn đi có mấy tiếng đồng hồ thôi
mà! Con ở với dì Ba có gì mà má lo dữ vậy. Thục Anh đang cười con kìa.
Tại
anh Minh muốn chọc chị Thục Anh, chớ My thấy cặp mắt chị đang long lanh, giống như
những giọt nước mắt đang chực trào ra. Có lẽ vì vậy mà miệng chị cười méo xẹo!
Trái tim nhỏ bé của My mà cũng còn thổn thức trước cảnh chia ly này, huống hồ...
Xe chạy
đi rồi mà bên tai My vẫn còn văng vẳng tiếng chị Thanh Trúc: tạm biệt Mimosa. Đừng
quên chị nha. Mimosa... Mimosa....
Tiểu - Thu
****
TRỘM NHÌN
Ngân Bình
1.-
Đôi khi trộm nhìn em
Xem dung nhan đó bây giờ ra sao.
Em có còn đôi má đào như ngày nào?
…
Vừa bước vào nhà, nàng đã nghe giọng “lảnh lót” của
chàng.
Không biết từ lúc nào chàng cứ rên rỉ, ngâm nga những
lời hát tình tứ đó. Nếu từ trước đến nay chàng vẫn thế thì chẳng có gì để nàng
thắc mắc. Nhưng chàng vốn là người chẳng thích âm nhạc. Mở TV lên, chàng chỉ
chăm chú vào mục tin tức hoặc thể thao. Nếu chương trình chuyển sang mục hát hò
là chàng đứng dậy, đi làm việc khác. Vậy mà mấy ngày nay… Sự thay đổi này làm nàng thấy lạ, có hơi ngờ
ngợ, và bây giờ thì… có hơi ngờ vực. Nàng gọi chị Cả kể lể. Vừa dứt lời, một
tràng khuyến cáo nổi lên, làm nàng thấy nỗi nghi ngờ của mình không còn “ảo” nữa,
mà là “thật”.
-Coi chừng nha, thời buổi bây giờ, anh trai mây, em
gái mưa, kết nghĩa rào rào trên facebook, trên Iphone. Nhờ kỹ thuật số cao siêu
mà vợ chồng qua mặt nhau bằng những lý do rất hợp lý, nào là phải tôn trọng sự
riêng tư, phải tin tưởng nhau tuyệt đối…
Nàng như mất hồn khi nghe thêm tin tức nóng bỏng:
-Nói vậy chứ cũng phải từ từ điều tra, đừng hỏi dồn, hỏi
dập. Bị quê, nó trở mặt, nện cho một trận phù mỏ thì đừng đổ thừa tại tao. Hổm
rày, tin tức loan báo nạn bạo hành trong gia đình tăng vọt. Cơn đại dịch này
làm mọi người bị nhốt cứng trong nhà, nên mấy “thằng chồng” hay nổi điên bất tử.
-Em cần anh giúp gì không?
Một bất ngờ khác!. Có bao giờ chàng “ga lăng” và siêng
năng như thế đâu. Nàng chưa kịp cảm động thì đầu óc lại nhanh chóng liên tưởng
đến câu nói của bạn “Khi ông chồng bỗng nhiên ngọt ngào, nhỏ nhẹ thì phải đề
cao cảnh giác. Có thể, chàng đang ‘ăn vụng’ và mặc cảm tội lỗi làm chàng cảm thấy
phải đền bù cho vợ. Hoặc là, khi có tình cảm mới, lòng phơi phới yêu đời, người
ta rất dễ tử tế với người chung quanh”.
-Em… có nghe anh hỏi không?
Nàng giật mình, nhìn quanh tìm kiếm.
-À!…anh… anh lặt giá dùm em.
Dứt lời, nàng chợt nhớ câu chàng thường nói “để vậy ăn
được rồi, lặt chi cho mất thời giờ”. Nàng chờ tiếng cằn nhằn. Nhưng không,
chàng vui vẻ đổ mớ giá ra rổ, tiếng hát
lại bật ra “đôi khi trộm nhìn em…”. Em? Em nào đây? Nàng muốn hỏi chàng câu hỏi
ấy với tất cả nỗi bực bội trong lòng, nhưng nhớ đến hai chữ bạo hành, đành trút
nỗi ấm ức xuống những nhát dao đang bụp con cá chưa kịp rã đông.
2.-
Cuối cùng thì quyển album cũng hoàn tất. Không biết
nàng sẽ vui hay buồn, thích hay không thích những bức ảnh mà chàng đã chụp lén,
sau rất nhiều ngày chàng ngồi trước TV, nhưng ánh mắt lại hướng sang căn bếp,
nơi nàng lui cui làm đủ thứ việc. Có ở nhà một thời gian dài như thế này chàng
mới nhìn rõ sự vất vả của vợ. Một hôm,
anh bạn đồng nghiệp điện thoại thăm và nói “Sao ông nào cũng than buồn, than
chán, rồi đâm ra cau có, gắt gỏng. Hãy nghĩ
đến những người đang nhiễm bệnh để thấy rằng mình quá may mắn. Rồi ở
nhà, thay vì lê lết trên sofa suốt ngày với phim ảnh, ta hãy tham gia các trò
chơi với con cái, hay vào bếp phụ vợ, dọn dẹp, sửa sang nhà cửa để cảm nhận được
sự đầm ấm của gia đình mà lâu nay vì chúi đầu vào công việc, chẳng bao giờ mình
để tâm đến. Ông thử nhìn trộm vợ một ngày, thì ông sẽ thấy…..
-Thấy cái gì?
-Thấy cái mà ông nhìn đó. Ha! Ha!!! Chắc ông đang cho
là tôi nhảm nhí. Nhưng sẽ không nhảm nhí chút nào, nếu ông khám phá ra nhiều điều
thú vị như câu hát “Đôi khi trộm nhìn em…..”
Vậy là chàng bắt đầu trộm nhìn để bắt gặp một khuôn mặt
rất quen mà lại rất lạ khi nàng chăm chút công việc nội trợ. Có lúc thong thả,
có lúc vội vàng. Có lúc căng thẳng, bức bối, có lúc lại tươi tắn, nhẫn nại. Bàn
tay nàng hoạt động không ngừng, cả cơ thể chuyển động, lúc sang trái, lúc sang
phải một cách nhanh nhẹn … Rồi giọng nói, lúc nhẹ nhàng, dịu ngọt, lúc gắt gỏng,
giận dữ, khi những thằng nhóc con tíu tít đùa giỡn, hoặc cãi cọ hung hăng.
Tất cả những gì nhìn thấy đã cho chàng biết, vì sao
mình và các con có được cuộc sống an lành với những bữa cơm nóng sốt trong căn
nhà sạch sẽ, ngăn nắp. Những điều mà trước kia chàng không mấy quan tâm và chẳng
hề ước lượng được bao nhiêu khó nhọc trong những việc không tên mà người vợ
thân yêu đã âm thầm gánh vác.
3.-
-Trời ơi! sao anh chụp chi những tấm ảnh xấu hoắc vậy?
Phải báo trước để người ta ăn mặc tươm tất, tươi cười vui vẻ chứ. Coi nè! tấm này đang vận công để chặt thịt, tấm
này nhăn nhó như khỉ, vì đang nếm canh chua… chua quá! Còn mấy tấm kia nữa. Sao
cứ nhè lúc em xấu nhất mà chụp vậy? Em không thích chút nào.
-Nhưng anh rất thích, vì nó đẹp ở một góc cạnh khác.
Chính góc cạnh em cho là xấu, đã cho anh và các con một mái gia đình thật ấm
êm, hạnh phúc. Em có biết là anh đã “trộm nhìn em” bao nhiêu ngày mới có được từng
đó bức ảnh không?
À! Thì ra… “Em” chính là nàng. Vậy mà….
Cám ơn anh. Nàng nói rất thầm và từ bây giờ nàng tin rằng,
dù đôi má đào không còn hồng như ngày xưa, nhưng nàng vẫn giữ được trái tim
chàng. Trái tim nồng ấm biết trọng tình, trọng nghĩa.
Ngân Bình
https://www.youtube.com/watch?v=Qe-E_F6zVrE
YouTube nhạc của Thu Hương:
https://www.youtube.com/watch?v=Qe-E_F6zVrE
***
THOÁNG HƯƠNG XƯA
Tiểu-Thu
Bữa nay Bác Sĩ Thanh ra ngoài ăn
trưa, nhưng lại về phòng mạch sớm mười lăm phút. Thấy trời nắng thật đẹp mà
chưa hết giờ nghỉ, Kim xin phép ra ngoài dạo một vòng cho thoải mái. Kim làm
thư ký cho bác sĩ Thanh lẩm rẩm mà đã bốn năm. Sáng bắt đầu mười giờ, chiều sáu giờ đóng cửa. Một tuần
năm ngày.
Bên trái văn phòng là con hẻm khá rộng
dẫn ra tới đường Jean-Talon. Hai bên hẻm là vườn sau của những ngôi nhà hướng mặt
ra đường Fabre và Marquette. Trên hai con đường này có vài gia đình Việt-Nam
trú ngụ. Nhưng người Ý chiếm đa số, nên những mảnh vườn nho nhỏ được chăm sóc rất
kỹ, trồng đầy hoa đủ màu sắc và rau. Nhiều nhất là cà chua và húng quế Ý. Loại
này lá y hệt húng quế ta nhưng to bản và mùi hắc hơn.
Kim vừa thả bộ vừa đưa mắt ngắm hai
bên. Ngang qua nhà ông bà Trudeau, Kim dừng bước nhìn qua hàng rào. Căn nhà
đóng cửa im ỉm. Màn cửa sổ cũng kéo lại kín mít. Kim thấy bồi hồi trong dạ. Hai
ông bà đều đã qua đời cách đây ba tháng. Ông mất trước bà đúng hai tuần lễ. Ông
chồng cả đời không rờ tới một điếu thuốc, ngược lại bà vợ hút cả gói mỗi ngày.
Hậu quả ông chồng chết vì ung thư phổi!!
Chôn cất chồng xong, bà Trudeau nhất
định không ăn cũng không uống để từ từ về bên kia thế giới, như một ngọn đèn lụn
dần vì hết dầu...Mà thật kỳ lạ, lúc còn tại thế, hai ông bà cãi nhau suốt ngày.
Bà cho bà giỏi, ông cho ông hay. Không ai nhường ai suốt hơn sáu chục năm chung
sống! Kim tưởng khi một trong hai người mất đi, kẻ còn lại sẽ cảm thấy thoải
mái lắm lắm. Thế mà không đúng. Bà Marie, em họ bà Trudeau, đã cười khi thấy
Kim tỏ ra thắc mắc:
- Có gì lạ đâu. Jacques chết đi,
không còn ai để cãi, Marguerite cảm thấy buồn chán nên quyết định theo Jacques
về bên kia thế giới...cãi tiếp cho vui!
Trong vườn, hoa và cỏ dại mọc lẫn lộn
trông thật tiêu điều! Những gốc hồng đã bị bứng đi hết. Những năm trước, giờ
này ông Trudeau đang lui cui tưới, tỉa hoặc nhổ cỏ dại. Thấy Kim đi qua thế nào
ông cũng kêu lại, đưa qua hàng rào, khi vài đóa hồng, lúc bó cúc vàng, cúc
tím...Bóng bà Trudeau chỉ thấp thoáng sau bức màn the. Bà ít khi ra vườn vì bị
mẫn cảm với cây cỏ. Cuộc đời như một giấc chiêm bao. Thấy đó mất đó. Tranh đua,
ghen ghét cho lắm rồi cũng hư vô...Mới hôm qua đây chớ đâu, nghe tin một nhân vật
khá tai mắt ở Montréal vừa qua đời, Bác sĩ Thanh gọi một người bạn để báo tin
buồn, không ngờ đầu dây bên kia có tiếng reo:
- Thế thì phải mừng đi chứ!
Lúc Kim hỏi tại sao nhiều người không
thích ông ấy, thì Bác sĩ Thanh cười trả lời tại lúc nào ông ta cũng chỉ thích
nhìn lên trời để đếm sao!
Kim nghiêm nét mặt:
- Theo em, tại thiên hạ ghen tị với ổng,
chớ những người chỉ thích nhìn lên trời là những người có tâm hồn hướng thượng.
Bác sĩ không thấy vậy sao? Hai thầy trò đồng cười xòa...
Đứng tần ngần một lúc Kim lại tiếp tục
đi. Nhiều người đang xới đất, bón phân, thấy Kim họ giơ tay chào. Dân khu này
phần lớn là bệnh nhân của Bác sĩ Thanh. Tới góc L.O David, Kim quẹo qua đường
Fabre trở về văn phòng.
Vừa ngồi xuống ghế đã có một anh da
đen vào đưa thẻ y tế. Đây là người da đen duy nhất làm ở Caisse Populaire ngoài
đường Papineau. Kim hỏi:
- Ủa bữa nay bệnh, không đi làm sao
Valentin?
Anh chàng trả lời giọng buồn thiu:
- Mất việc cả tuần nay rồi còn đâu!
Kim ngạc nhiên:
- Sao vậy?
Valentin nhún vai:
- Họ nói mấy con nhỏ làm chung chê
tôi lười biếng. Vậy mà từ năm rưỡi nay tôi chỉ nhận được những lời khen từ ban
giám đốc không hà. Thiệt có Trời mới hiểu nổi! Anh ta gõ gõ ngón tay lên trán,
suy nghĩ nhiều nên nhức đầu, phải đi khám Bác sĩ...Nhưng tôi biết bà Kim à. Ai
cũng khinh thường dân da đen...
Kim vội ngắt lời:
- Ấy, đừng vơ đũa cả nắm chứ. Mà
thôi, cứ nghĩ dù sao ở đây mình cũng còn sướng hơn đồng bào nơi quê nhà gấp
trăm lần, là anh bớt buồn. Chúc anh may mắn hơn trong tương lai nhé.
Valentin chào Kim rồi bước ra phòng đợi.
Vừa làm xong hồ sơ thì một ông già
người Á Đông bước vào. Kim đon đả chào:
- Thưa bác Phan. Lâu lắm mới gặp lại
bác. Bác gái vẫn mạnh hở bác?
Ông Phan gỡ cặp kính lão xuống:
- Lâu lắm không gặp cô vì tui về bên
Việt Nam hết mấy tháng. Cái rồi bà tui bả mất luôn ở bển.
Kim sửng sốt:
- Thật hả bác? Bác gái bệnh nặng lắm
sao?
Ông Phan trả lời giọng đầy ắp bực dọc:
- Phải bả bị đau nặng rồi mất tui
cũng đỡ tức. Đàng này, dìa bên đó cả tháng trời, ngày nào bả cũng đòi ăn mắm. Hết
mắm chưng tới mắm kho, mắm thái, rồi bún mắm... thôi thì hổng thiếu thứ nào!
Tui cản, thì bả nói lâu lâu mới dìa xứ, ăn cho đã thèm. Mà cô biết xứ bả ở Châu
Đốc mới chết cửa tứ chớ! Ăn riết mặn quá mới bị đứt mạch máu. Chở lên bịnh viện
trên Sàigòn cũng trớt quớt luôn! Lo cho bả yên mồ yên mả rồi tui mới qua được mấy
bữa nay. Thiệt rầu quá cô Kim à!
Kim an ủi :
- Bác đừng trách bác gái tội nghiệp.
Dân Nam kỳ ai không thích ăn mắm hờ bác? Cháu chỉ nghe bác kể sơ mấy thứ thôi
mà đã chảy nước miếng luôn...Theo cháu nghĩ, lúc đã tới số, không chết vì bệnh
này cũng phải chết vì bệnh khác. Có người đứng trên lề đường đàng hoàng vẫn bị
xe lạc tay lái, hoặc tài xế say rượu leo lên cán chết tươi...Bác buồn cho lắm rồi
sanh bịnh bác ạ...
Giọng ông già sũng nước mắt:
- Tui cũng biết vậy, nhưng tuổi già
có người bạn đời bên cạnh đỡ quạnh hiu cô à. Xứ này, ban ngày con cái đi làm
hay đi học hết trơn. Mùa đông sợ lạnh, sợ tuyết không dám ra ngoài. Tối ngày
lúc thúc trong nhà tù túng hết sức! Hồi
trước còn có bả để nói chuyện nọ chuyện kia. Bây giờ cu ky một mình.
...Ông Phan lắc lắc cái đầu bạc trắng,
không nói tiếp được, khiến Kim cảm thấy bồi hồi vô tả! Nàng biết đàn bà sống cảnh
góa bụa dễ hơn đàn ông. Các bà có thể tìm thú vui trong chuyện bếp núc, trong
việc giữ cháu cho con cái đi làm. Các bà có thể gọi nhau để tâm sự hàng giờ qua
đìện thoại. Ngoài ra đi "shop" cũng là một nguồn vui bất tận của các
bà!
Đang nói chuyện thì một anh tây trắng
lừng lững đi vào. Kim kín đáo nhăn mặt với ông Phan. Ông cụ chắc cũng khiếp đảm
khi nhìn thắy một nhân vật người không ra người, ngợm không ra ngợm, mùi hôi từ
người hắn xông ra...điếc mũi luôn, nên lật đật lui ra phòng đợi.
Jacques Gagné mới ngoài ba mươi mà
già xọm như đã sáu mươi. Hắn cao lêu nghêu, đầu tóc rũ rượi như cả đời chưa bao
giờ biết trên cõi đời này có một thứ mang tên là cái lược! Quần áo xốc xếch, cặp
mắt lúc nào cũng lờ đờ vì thuốc. Kim hỏi:
- Bữa nay anh muốn gì?
Jacques cất giọng lè nhè:
- Muốn thuốc ngủ. Hai bữa rồi tôi thức
trắng đêm.
Kim hỏi tiếp, dĩ nhiên vì tò mò:
- Ban ngày anh làm gì mà đêm không ngủ
được?
Jacques khoát tay:
- Chẳng làm gì hết.Tôi xem T.V.
Kim nhắc:- Và uống bia.
Hắn cố nhướng cặp mắt lờ đờ nhìn Kim
phân trần:
- Đâu có bao nhiêu. Mỗi ngày có một
két mười hai chai thôi mà.
Kim lắc đầu chán nản. Nàng đi làm cực
nhọc, đóng thuế cho ông nhà nước để ổng nuôi cái đám người vô tích sự như tên
Jacques này đây. Họ chẳng đi làm, ở không mãi cũng buồn, đành dùng rượu, bia,
thuốc để giải sầu! Riết rồi giống như những xác chết biết đi. Kim muốn tát vô
cái mặt phị ra vì rượu và thuốc của hắn vài cái cho đã tức, khi nhớ tới những
người dân tội nghiệp trên cái xứ sở còm cõi vì chiến tranh của mình. Họ làm quần
quật như trâu bò suốt ngày mà vẫn không đủ ăn. Xứ đã nghèo Trời còn hành tội, gởi
xuống đủ thứ tai ương. Hết bão lụt nát tan nhà cửa, tới chuột bọ phá hại mùa
màng... Kim lắc lắc cái đầu, cố xua đuổi những tư tưởng hắc ám lẫn giận dữ, đưa
tay cầm cái thẻ từ bàn tay dơ bẩn, run lẩy bẩy của Jacques. Sau đó mời hắn ra
ngoài cho khuất mắt...Rồi mở ngăn kéo lấy hộp dầu cù là con cọp xức lên mũi
chút xíu...
...Kim đang lúi húi xếp hồ sơ vô tủ
thì chuông điện thoại reo. Nhận ra giọng chị Mai, Kim hỏi có gì lạ không? Chị
Mai phụ trách ban xã hội trong Cộng đồng. Thỉnh thoảng chị phone xin sữa (do mấy
viện bào chế biếu Bác sĩ Thanh làm quảng cáo) cho các bà mẹ có lợi tức thấp. Lần
này chị rủ Kim đi thăm một thiếu phụ Việt-Nam đang tạm trú trong cơ quan bảo vệ
phụ nữ bị hành hung. Chị Mai kể Kim nghe hoàn cảnh đáng thương của mẹ con cô
Nga. Cô vượt biên một mình qua Bidong. Gặp cậu Thuận trên đảo. Hai bên cùng bơ
vơ nên phải nương tựa lẫn nhau.Sau khi thành hôn, liền làm giấy tờ xin định cư
tại Canada. Họ được Québec nhận và về sống tại thành phố Montréal. Cả hai đều mới
ngoài hai mươi, sinh lực dồi dào nên "cày" rất hăng. Thuận còn bà mẹ
và hai cô em gái ở Việt Nam. Qua Canada được hai năm thì Nga cho ra đời một bé
gái kháu khỉnh. Tính nết hiền dịu, không thích đua đòi, nên tiền bạc Thuận muốn
gởi về giúp gia đình bao nhiêu Nga không hề thắc mắc. Thuận muốn bảo lãnh gia
đình qua, Nga cũng không phản đối...Sóng gió nổi lên ít lâu sau khi mẹ và hai
cô em chồng sang đoàn tụ. Bà mẹ thuộc môn phái "Thích-Đủ-Thứ", nên
không cần biết con mình là công nhân, làm lè lưỡi mới "bao" nổi trọn
gia đình (thằng con mới mở miệng đề nghị kiếm việc làm cho hai cô em đã gặp
ngay sự phản đối kịch liệt của bà mẹ thân mến! Bà nói tụi nó mới qua, chưa được
"hưởng" cái gì hết đã "bị" lôi cổ đi làm!!!. Bà chê xe hơi
gì đã cũ mèm lại chật cứng, T.V. vừa nhỏ màu lại không đẹp! Sao không mua nhà
mà ở "áp" chi cho chật chội quá trời quá đất? Thằng con á khẩu luôn,
vì giải thích cách nào bả cũng không tin. Những đòi hỏi "chính đáng"
không được thỏa mãn, bà đâm hận con dâu, cho rằng cô này "thủ" hết tiền
của con bà! Bà tung chiến dịch nói xấu, dèm pha đủ điều khiến con trai và con
dâu đi đến chổ cãi vã và cuối cùng đánh nhau! Một lần, hai lần...Sau cùng, bên
vợ, bên mẹ, anh chồng chịu hết nổi đâm ra quẫn trí, đánh vợ một trận nhừ tử, thừa
sống thiếu chết. Lần này sợ quá cô vợ phải kêu cảnh sát. Đến nơi, thấy anh chồng
có vẻ không được bình thường, họ chở ngay vào bịnh viện tâm thần và đem Nga với
đứa con đến tạm trú nơi cơ quan bảo vệ phụ nữ bị hành hung. Gia đình tan
nát!!!...Ác nữa là cô đang mang bầu ba tháng.
Từ khi làm ở đây, Kim đã nghe biết
bao chuyện đổ vỡ tương tự. Còn những lời than thở trách móc thì vô số. Đại loại
như "Phải dè cực khổ vầy tui đâu thèm qua". Kim bật cười chua chát
khi nhớ tới thằng cháu của chị bạn thân. Chỉ một tuần sau khi bên đảo mới qua,
cu cậu kêu lên một cách kinh ngạc "Cháu tưởng bên này cô sướng như
tiên!" Chị bạn từ tốn trả lời "Cô sướng như tiên đó chứ. Nhưng mà
tiên mắc đọa cháu ạ!". Nhiều trường hợp ngang chướng hơn " Bảo lãnh
tôi qua thì phải nuôi chứ sao. Tội gì đi làm cho cực!" Các bậc cha mẹ thì
than thở con cái bên này không có hiếu như lúc ở Việt Nam. Kim tự hỏi không biết
sau tám tiếng làm việc cật lực mỗi ngày, chiều về còn cơm nước, con cái. Cuối
tuần chợ búa, giặt giũ...trăm thứ hằm bà lằng, các con cụ đào đâu ra thời giờ để
đưa các cụ đi đây đi đó? Chao ơi là khó!!!...
Kim có một cặp bạn dở khóc dở cười vì
ông già. Cả hai dành dụm được số tiền kha khá, tậu một căn nhà khang trang bên
Laval, có vườn rộng trồng cây cối mát mẻ. Đón ông gìa qua nhằm mùa đông nên mọi
sự êm xuôi. Xuân qua, hè tới, hoa cỏ cây cối tốt tươi. Ông cụ hàng ngày lo chăm
sóc khu vườn, vì con và dâu còn lo cày tối tăm mặt mũi để trả tiền bill hàng
tháng. Kể ra ông là người rất thức thời, thương con cái. Không hề đòi hỏi gì
ngoài hai bữa cơm. Mọi người đều vui vẻ, haiụ lòng... Cho tới một hôm, vừa cơm
tối xong bỗng có tiếng bấm chuông. Ông con ra mở cửa, đụng ngay một đấng
"bạn dân". Cậu ngạc nhiên hỏi có chuyện chi? Thầy cảnh sát đáp không
có gì nghiêm trọng lắm. Chỉ là có người hàng xóm phôn lên sở cảnh sát thưa ông
bố cậu, giữa thanh thiên bạch nhựt đã vén quần "tưới cây" ngoài vườn!
Bữa nay thầy tới để cảnh cáo, nếu tái phạm sẽ bị lôi ra ba tòa quan lớn và sẽ bị
phạt về tội "khoe của"! Lúc nghe cậu con trai báo cáo lại những lời
đe dọa của thầy đội, ông già bèn nổi nóng phán rằng " Cả đời tao ở cái xứ
Việt-Nam, ngay dưới chế độ gông cùm của Cộng sản, chưa ai cấm tao đái trong vườn
nhà tao. Qua đây, nghe nói là xứ tự do, vậy mà trong vườn của mình, mình cũng
không được phép đái!. Vậy tự do ở cái chỗ nào bây nói tao nghe coi?"
Sau đó ông già nhất định khăn gói quả
mướp về lại xứ Việt-Nam thân yêu. Con cái năn nỉ cách nào cũng không được, đành
để cụ về quê hưởng cái thú "tưới cây" ngoài vườn cho thoải mái! Thiệt
tình cái ông già Ba Tri!..
Kim vội chào chị Mai rồi cúp phôn vì
có một cô đầm non bước vào. Nàng thấy ngay cô nhỏ không được bình thường. Phía
trên chiếc quần thun đen bó sát người là chiếc aó không tay, ngắn cũn cỡn, để hở
rốn có xỏ một chiếc vòng nhỏ xíu bằng bạc. Cánh tay xâm hình trái tim đỏ chót với
mũi tên xuyên qua. Tóc đỏ màu cà rốt, môi đánh son tím thẫm và cặp mắt tô đen lờ
đờ như thiếu ngủ. Đang vắng khách nên cô nhỏ vào ngay. Kim đang suy nghĩ coi cuối
tuần này sẽ làm món gì cho cả nhà ăn, thì nghe có tiếng cãi cọ từ trong phòng
khám bịnh vọng ra. Kim đã đoán trước sẽ có vấn đề nên không làm hồ sơ ngay. Nhờ
làm lâu ngày nên bệnh nào thật, bệnh nào giả Kim phân biệt dễ dàng. Nếu nghi,
không làm hồ sơ vì trước sau gì Bác sĩ Thanh cũng sẽ xé bỏ và mời con bệnh...
giả đi kiếm thày lang khác cho tiện việc sổ sách! Một tiếng rầm vang lên làm
Kim giậỉt nẩy mình,vội đứng lên chạy ra ngoài coi có chuyện gì. Cô đầm non đang
hùng hổ đi ra, gặp Kim thì sủa liền:
- Tại sao tui cần thuốc mà ổng hổng
cho? Vô lý!
Kim chưa kịp mở miệng thì cô ta đã
đùng đùng mở cửa đi ra rồi đóng lại rầm thiếu điều muốn sập nhà! Kim le lưỡi,
tay chận ngực cho bớt xúc động. Bác sĩ Thanh bước ra thấy bộ mặt ngơ ngác và
ánh mắt dò hỏi của Kim thì lắc đầu, chép miệng:
- Con nhỏ muốn thuốc an thần lẫn thuốc
ngủ. Vì thằng bồ đi cướp nhà băng bị tù nên thần kinh căng thẳng, cô ta không
ngủ được. Tôi từ chối nên có màn Tarzan nổi giận. Ông chỉ cánh cửa phòng ăn bị thủng một lỗ
rồi nói tiếp:
- Tội nghiệp cánh cửa vô tội bị đòn
oan. Thì ra lúc đi ngang, cô nhỏ trút nỗi bực tức bằng cú đấm lên cánh cửa. Kim
lắc đầu chào thua!
Đứng xếp hồ sơ vô tủ, lưng quay ra
phía cửa. Cửa xịch mở, Kim chưa kịp quay lại, một mùi hương đã thoang thoảng
đưa đến. Mùi hương sao mà thân quen. Trong khoảnh khắc nó gợi cho Kim biết bao
kỷ niệm êm đềm của thời con gái. Lệ Hồng ngày xửa ngày xưa thích mùi Tabu. Chỉ
Tabu, không thay đổi thứ nào khác, nên vô tình nó tạo cho Lệ Hồng một nét đặc
biệt giữa đám nữ sinh thuở đó. Lệ Hồng với làn tóc mây, cặp mắt nâu và nụ cười
có chiếc răng khểnh, cộng thêm tài làm thơ thần sầu... Ngày đó hai đứa thân
nhau như hình với bóng. Cuối tuần cùng đạp xe thong dong trên những con đường rợp
bóng mát của Phương Nghĩa hay Phương Hòa. Đôi khi ghé nhà bác Điền mua mía
Thanh Diệu, rồi ra ngồi trên chiếc cầu ván bắt ngang con rạch nhỏ sau nhà bác,
đong đưa đôi chân trần xuống dòng nước mát rượi, vừa ăn mía vừa cười giỡn như
pháo rang. Những trưa hè hai đứa ngồi
trên chiếc võng sau hè nhà Lệ Hồng ăn mít non chấm muối ớt, vừa xuýt xoa vì
cay, vừa cười rúc rích khi đọc những bức thơ tỏ tình, tuy lời lẽ còn non nớt
nhưng không kém "hương vị" nồng nàn, tha thiết!... Đôi khi hai đứa nằm
quay ra hai đầu võng, mắt nhìn lên những mảng trời xanh lốm đốm qua tàn lá, thả
hồn lông bông, mơ hồ nghe tiếng ve sầu rỉ rả... Tuổi hoa mộng giờ đã xa tít mù
khơi. Nhưng đôi khi, chỉ một mùi hương quen thuộc thoảng qua, một chút âm điệu
của một bài hát cũ, hoặc một tiếng chim líu lo đâu đó, cũng kéo về cơ mang nào
là kỷ niệm...Bây giờ Kim nơi này và Lệ Hồng còn kẹt lại...Những kỷ niệm thân
thương khiến Kim thẩn thờ cho đến giờ tan sở. Mỗi sáng Tín đưa vợ đến sở rồi mới
đi làm. Chiều Kim chờ chồng tới đón. Ngồi trên xe không thấy vợ lăng líu như thường lệ, Tín ngạc nhiên:
- Bữa nay có chuyện bực mình hay sao
mà cưng có vẻ trầm tư dữ vậy?
Kim nhìn sang chồng cười gượng:
-Kỳ ghê anh à. Lúc chiều vừa thỏang
thấy một mùi nước hoa cũ, trí óc em đã bay đâu mất tiêu. Đúng là "hương
gây mùi nhớ"...
Tín trợn mắt:
- Ấy ấy, không phải mùi nước hoa cạo
râu nào đó chớ bà xã?
Kim nguýt chồng:
- Nghèo mà ham! Đó là mùi Tabu của Lệ
Hồng ngày xưa. Nó gợi em nhớ thuở còn đi học. Nói xong Kim thở dài...
Tín tặc lưỡi:
- Chà, vợ tui lại nổi máu mơ mộng rồi!
Mơ gì thì mơ nhớ đừng quên là giờ này cái bao tử của anh đang kêu réo thảm thiết
lắm nghen cưng...
Kim hứ một tiếng:
- Thiệt phàm phu tục tử hết chỗ nói.
Sợ anh luôn!!
Tín cười xòa, cho xe quẹo vô sân...
Tiểu-Thu
THANGặp làm sao được ơi chị ơi
Giới nghiêm còn đó cùng Covid
Vít hoài, vít mãi , ới ời ơi
Sao Khuê
***
RÉO
Minh Châu Trời Đông lại lặn rồi
Vùng lên mau sáng tác kịp thời
Chơi XUÂN đi kẻo XUÂN tàn hết
Sẽ khóc cho mà lệ ước... môi.
Sáng tác Phương Hoa đã gom xong
Còn chờ cho đủ đếm rồi... đong
Sẽ cho tất cả vào vườn MỘC
Cùng nhau thưởng thức cho mát lòng
P.Hoa
THÁNG BA – ĐÊM KHÔNG NGỦ
Phương Hoa
Đêm tháng Ba. Cả thành phố tôi chiều nay đột nhiên hụt hẫng,
chơi vơi, bấn loạn, vì tin tức về Virus Vũ Hán và những mệnh lệnh “cấm trại” mà
quận hạt mới đưa ra. Ngoài trời, những cơn mưa Xuân vẫn vô tư trải rào rào lên
mái nhà, và gió cũng hùa theo huýt sáo từng cơn lướt qua khe cửa kính luồng vào
phòng làm việc khiến tôi lạnh đến rùng mình, dù cho máy sưởi vẫn chạy. Cái con
Virus Vũ Hán này quả là “đồ nghiệt súc,” nói theo kiểu truyện Phong Thần của
người Tàu xưa, dù mắt thường không thấy được nó, nhưng nó đã làm đảo lộn cả thế
giới loài người.
Mặc dù tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã vị nể (hay bị mua
chuộc?) nhà cầm quyền Trung Cộng mà đặt lại tên cho lũ virus phát sinh từ Vũ
Hán thành ra COVID-19 cho khỏi “đụng” đến bọn cộng Tập, thì, “Thiên bất dung
gian,” những chữ viết tắt này lại vẫn đại diện cho nguồn gốc của lũ virus độc hại
này. Chàng thanh niên trẻ Hoàng Chí Phong, nhà hoạt động dân chủ Hồng Kông
thông minh đã diễn giải ra một cách thật ngoạn mục, có phần độc đáo hơn là
khác, thành “China Originated Virus In December -19” nghĩa là “Vi khuẩn tháng
12/19 nguồn gốc từ Trung Quốc.”
Cũng như các nước trên thế giới, tình hình nước Mỹ trong
thời gian qua thật là bất ổn. Nhiều tiểu
bang liên tục ra lịnh đóng cửa (shutdown) yêu cầu mọi người không nên ra khỏi
nhà nếu chẳng có chuyện gì quá cần thiết. Mở TV lên toàn tin tức xấu, thành phố
này thêm bao nhiêu ca nhiễm, thành phố kia lại có người ra đi vì virus Vũ
Hán… Mở email lên lại càng…rối hơn, thư
này chuyển tin tiểu bang kia mới cập nhật bao nhiêu người nhiễm, người chết,
thành phố nọ thông báo tổng số ca bệnh trong 24 giờ qua. Có một số thông tin hữu
ích ngừa dịch, tôi chuyển tiếp cho bạn bè, như rửa tay thường xuyên 20 giây với
nước nóng và xà phòng, giữ khoảng cách 2m đối với tất cả mọi người trừ người
trong gia đình, và đừng bao giờ đưa tay lên mắt, mũi, miệng…
Còn email các chị trong hội Minh Châu Trời Đông, nhóm “nữ
quái bà bà” chúng tôi thực tế hơn, vì họ là những bậc đàn chị “lão làng” ai
cũng có cả một trời kinh nghiệm, kinh nghiệm sống đời cơ cực sau 75, chống chọi
với sự lạc hậu, bịnh tật không có thuốc phải lây lất với xuyên tâm liên và cây
lá thiên nhiên, từng đối mặt với sự đói khát, lăn lộn trong rừng sâu núi thẳm
nuôi chồng bị tù đày, vất vả trên đường vượt biên vượt biển… Các chị chuyển cho
nhau ngập trời ngập đất những thông tin, cách thức ngừa bệnh, tránh bệnh mà họ
bảo là “nhanh nhất,” “hữu hiệu nhất” bằng các phương pháp dân gian Việt. Người
khuyên uống nước chanh mỗi ngày, kẻ xúi nhai gừng tươi với muối, rồi thì nấu nước
sả với vỏ chanh xanh uống buổi sáng, súc miệng bằng nước muối, người “giỏi võ”
hơn thì bày uống thuốc Tylenol và thuốc ho, nếu cảm thấy trong người mệt mỏi
hay ngứa cổ…v.v…để “diệt khuẩn từ trong trứng” và giúp tăng sức để kháng. Dù
không biết có hay có tốt hay không, nhiều người trong chúng tôi cũng làm theo,
vì những thứ ấy đều thuộc rau trái, và loại thuốc thông dụng, nếu ăn hay uống
vào không lợi thì cũng chẳng hại gì.
Buồn nhất là các bạn trong hội Văn Bút Miền Đông Bắc Hoa
Kỳ chúng tôi. Cuối tháng Ba 2020 là Đại Hội Mùa Hoa Anh Đào thường niên của hội
Văn Bút. Tôi và các chị bạn từ Cali đã book vé máy bay từ lâu, chuẩn bị hành
trang áo dài váy đẹp đủ kiểu đủ màu, hẹn hò sau đại hội Văn Bút thì cùng nhau
đi ngắm hoa anh đào ở thủ đô Washington DC giống như năm trước. Các tiết mục
văn nghệ văn gừng, hợp ca đơn ca, chúng tôi bàn tính và tự tập dợt, chỉ chờ qua
đó gặp mọi người sẽ “tổng dợt” lần cuối trước khi lên sân khấu, không ngờ bây
giờ phải hủy vé, thật là buồn!
Để khỏi phải bị “tẩu hoả nhập ma” vì mớ tin tức hỗn độn
bòng bong đó, hồi chiều này tôi quyết định tắt TV để đi chuẩn bị các thứ đúc
bánh xèo cho bữa tối.
Khi mọi vật liệu và thau bột pha xong thì phố đã lên đèn.
Tôi đang đứng chăm chút cho chiếc bánh xèo sôi liu riu trên bếp, thích thú ngắm
cái vành tròn xung quanh từ từ cong lên và lìa khỏi thành chảo. Màu đỏ sẩm của
nước luộc củ dền tôi dùng pha bột, vừa giúp cho bánh xèo tăng thêm chất dinh dưỡng,
vừa làm cho chiếc bánh trông thật đẹp, nhìn bắt mắt hơn so với màu vàng nghệ
tôi pha thường ngày. Những món “phụ kiện” như nấm bào ngư nâu, hành tím, giá trắng,
ớt bell đỏ càng làm cho chiếc bánh thêm phần hấp dẫn. Chờ cho bánh chín vàng đều,
tôi cầm cán chảo lắc nhẹ vài cái. Chiếc bánh bong ra, chạy qua chạy lại nghe
rào rào rất là giòn rụm. Đây là công thức “bánh xèo giòn” tôi mới học trên
online đem áp dụng lần đầu và thấy thành công nên khoái lắm, yên chí là sẽ nhận
được vài lời khen của ông xã trong bữa tối, khi mà bên ngoài tiếng mưa rơi lộp
độp nghe rất não nề trong cái thời điểm những tin tức “mắc dịch” liên tục đưa
lên trên TV.
Thình lình chuông điện thoại reo vang…
– Chị đã nghe gì chưa? Tiếng chị sui nhà thơ Tuyết Vân từ
San Jose gọi. – TV mới thông báo bắt đầu ngày mai sẽ đóng cửa hết khắp nơi, và
mọi người phải ở trong nhà. Chị đã mua đầy đủ thức ăn và các thứ thuốc men cần
thiết chưa?
Tôi giật mình. Chỉ mới mấy tiếng đồng hồ không mở TV,
không lên net mà đã có thay đổi lớn vậy sao.
Bữa giờ toàn nghe các nơi khác có lệnh đóng cửa chứ chưa đến thành phố
tôi, dù cũng thuộc miền Bắc Cali nhưng cách San jose đến hơn một tiếng đồng hồ
chạy xa lộ.
Tuần trước, tôi đã đi mua thức ăn gạo nước dự trử. Khi đó
chưa đến nỗi chộn rộn lắm, hàng hoá chợ còn rất nhiều, tôi định lấy thêm vài
bao gạo để dành ăn cho được mấy tháng. Nhưng chợt nhớ đến một chia sẻ trên
FaceBook tôi tình cờ đọc của cô gái Việt lấy chồng Nhật nên dừng lại. Chuyện chỉ
nhỏ xíu vài dòng thôi, mà làm cho tôi cảm động và nhớ mãi. Cô kể, ngày hôm trước
lúc nghe tình hình bệnh dịch tràn lan có thể mọi hoạt động ngoài xã hội sẽ ngừng
lại, cô đi đổ đầy một bình xăng. Khi về người chồng Nhật của cô đã mắng tại sao
không đổ nửa bình và chừa lại nửa bình kia cho những người khác. Tôi rất xúc động
và khâm phục, người dân Nhật có tinh thần tự trọng và tính nhân văn rất cao,
hèn chi đất nước họ phục hồi và tiến tới văn minh nhanh chóng sau cuộc tàn phá
bỡi bom nguyên tử trong đệ nhị Thế Chiến. Và hôm ấy tôi chỉ mua một bao gạo.
Nghe nói mấy ngày qua gạo đã bị vét sạch hết từ các chợ, Mỹ cũng như Việt. Nếu
tình hình này mà kéo dài, dù nhà chỉ có hai vợ chồng, chúng tôi có lẽ phải chịu…thiếu
cơm một thời gian. Nhưng không sao, đã có hai thùng mì gói và mấy lốc bánh mì bỏ
trong ngăn đá, hàng chục bao nhỏ các loại đậu có chứa nhiều protein, rồi còn những
bì bột bánh xèo bánh bao cộng với bún khô…chắc cũng “chịu đời” được đến mấy
tháng. Bây giờ chỉ còn mua thêm vài thứ
thuốc cảm thuốc ho trước khi cả thành phố đóng cửa nữa là tạm ổn.
Tắt điện thoại, tôi kêu ông xã ra ăn trước, rồi dọn dẹp
các thứ để chạy đi Walgreen.
Đã học hỏi rất nhiều những hình ảnh “chống giặc Vũ Hán”
trên mạng, tôi trang bị “tận răng” trước khi đi, không khác một phi hành gia.
Giày vớ kín mít, găng tay, mũ trùm đầu, hai lớp quần áo, áo khoát dài loại đi
mưa dễ giặt, và gắn vào đôi mắt kính bự chần dần. Tôi không mang khẩu trang, vì
thành phố tôi ở phần đông là Mỹ Trắng, bữa giờ ra đường chẳng thấy ai mang nên
sợ họ thấy tóc đen da vàng tưởng mình là “lính ông Tập” từ Vũ Hán trở về, rồi kỳ
thị bảo “Hãy mang coronavirus về China đi” như những tin tức loan truyền trên mạng
(điều này không phải nói mơ hồ đâu, mà chính con trai người viết ở Bắc Cali khi
các nhà hàng còn mở cửa nó dẫn gia đình nhỏ đi ăn, họ tưởng tụi nó là người
Trung Quốc nên chặn ở cửa nói “Hết chỗ rồi, hãy qua bên kia đi,” và chỉ qua nhà
hàng Tàu gần đó, trong khi nhìn vào bên trong nhà hàng đó vắng teo không thấy
bóng thực khách.) Không mang khẩu trang, vì tôi học được một cách rất “hay tiện
và dễ xài” mà lại an toàn, vừa khỏi tốn tiền mua khẩu trang với giá cắt cổ chả
dễ gì mua được lúc này, từ mấy chị bạn Minh Châu Trời Đông. Bữa giờ bên New
York dịch bùng phát mạnh nên các chị bên đó có nhiều kinh nghiệm san sẻ cho
nhau. Cách đó là, choàng vào cổ chiếc khăn quàng xinh đẹp, khi vô chợ kéo lên
che mũi miệng như các nàng Ả Rập, lúc về tháo khăn ra giặt là xong.
Lái xe dưới cơn mưa tầm tã, không khí lạnh ùa cả vào xe
làm tôi tưởng tượng đến mấy cái bánh xèo giòn rụm mà nuốt nước bọt một cách tiếc
nuối, lát nữa về thì bánh đã nguội mất tiêu rồi! Tưởng đã khuya Walgreen vắng vẻ,
không ngờ khi tôi đến bãi đậu xe tìm chẳng ra chỗ trống, phải chạy qua chợ
Safeway bên cạnh. Đậu xe xong tôi lội thẳng
một mạch vào khu vực thuốc Tây vì chỉ cần một ít thuốc cảm ho. Tôi áp dụng cái
cách “tránh xa hai mét” luồn lách qua các dãy hàng hoá ít người. Khách hàng vẫn vô ra đông nghẹt, nhất là ở
khu vực thuốc Tây, chắc họ cũng mới vừa nghe tin tức như tôi nên chạy tới đây
mua…cú chót. Vừa đi vừa né, bước chân
zich zắc, mắt láo liên, tôi ngạc nhiên nhìn những dãy kệ thuốc Tây trống trơn
trống hoác. Đặc biệt, thuốc cảm, thuốc ho, và Tylenol đã biến mất sạch sành
sanh.
Thất vọng, tôi lượn qua lượn lại chỗ quầy thuốc nhiều lần,
nín thở mỗi khi đến gần ai đó dù mũi miệng đã có khăn che. Bất thình lình, có một
tiếng ho rõ to bên cạnh. Tôi chưa kịp quay đầu lại thì những người xung quanh
đã vội bước tránh ra xa, đến nỗi có người va vào tôi thật mạnh. Tôi cảm thấy
lành lạnh sau gáy. Chết rồi. Không biết cái cô vừa đụng vào tôi ấy đã có từng về
từ chuyến du lịch Châu Âu, hay đi trên tàu Princess, hoặc du lịch tới China để
coi người ta ăn Tết Mặt Trăng hông nữa. Tôi nhìn cô ta nhưng cô không thèm để ý
gì đến tôi, hoặc nói lời xin lỗi như cái văn hóa Mỹ thường ngày, mà cô và những
cái đầu xung quanh đều quay ngoắt lại nhìn chằm chằm vào người đàn ông Á Châu vừa
mới ho bằng những đôi mắt…hình viên đạn. Ông ta như cảm giác được sự sợ hãi của
mọi người nên lấy tay che miệng và bước vội đi.
Dù trong dạ có chút bất an, tôi cũng ráng căng mắt lên
nhìn lần cuối vào mấy hộp thuốc bổ lèo tèo trên kệ, đọc kỹ từng nhãn hiệu xem
may ra có ai đem bỏ lẫn lộn thuốc cảm vào đó hay không. Thật là may mắn, cuối
cùng tôi nhìn thấy một hộp Tylenol còn sót lại trong góc của ngăn kệ trên
cùng. Mừng quá, tôi vội nhón gót lên chộp
ngay lấy nó. Khổ nỗi, hộp thuốc như trêu đùa tôi, vừa túm được nó thì tôi lại bị
tuột tay và nó rơi lọt thỏm vào trong khe của cái kệ. Tôi liền vơ đại một vỉ
thuốc, dùng hết sức bình sinh nhón gót lên để khều nó ra ngoài, và tôi bỗng bật
cười một mình vì nhớ lại tấm hình mới xem ban sáng do mấy chị bạn gửi cho. Đó
là hình chụp sau lưng một cô gái, có lẽ vì vội ra ngoài trước khi các nơi đóng
cửa nên cô chỉ mặc mỗi cái váy suông phủ đùi, bên trong cô mặc … “nothing,” trống
không, và khi cô nhón gót vói tay để lấy món đồ gì đó trên kệ hàng thì cái váy
bị…tốc lên cao theo hai cánh tay cô, làm khoe ra lồ lộ bộ mông trần trắng nỏn
nà, và ai đó đã chộp được đăng lên mạng xã hội rồi gửi đi vòng vòng. May mà tay
chụp hình đó còn “nhân đức” chỉ chụp từ phía đàng sau.
Chạy về nhà đậu xe xong, tôi đi luôn ra cửa sau, lột hết
mấy lớp áo quần ngoài, mũ khăn, giày vớ thảy cả vào máy giặc, tháo vỏ hộp thuốc
Tylenol, găng tay lia vào thùng rác rồi vô nhà đi tắm.
Vừa ngồi xuống bàn ăn thì cái cel phone báo có một tin nhắn
bạn tôi mới gửi đến. Không dằn được tôi vội mở ra coi. Đó là cái clip của người
dân Vũ Hán lén quay lại những cảnh tượng kinh hoàng mà người dân Trung Quốc phải
gánh chịu trong trận dịch.
Tôi thấy nhói cả tim gan khi nhìn những người cảnh sát
Trung Cộng đi bắt người ngoài phố, họ chụp lấy bất cứ người nào đang đi ngoài
đường và thảy vào trong thùng xe bít bùng rồi khoá lại chạy đi, mặc kệ cho nạn
nhân la hét kêu khóc thảm thiết. Có những người phản ứng, kêu gào trì kéo lại
thì bị đánh đập cho đến ngất xỉu, rồi lôi sền sệch tốc cả áo vuột cả váy đem vất
lên xe.
Tôi há hốc, không tin vào mắt mình, khi xem đến đoạn phim
những người mặc trang phục trùm kín từ đầu đến chân bắt người đem nhốt vào nhà
họ, khóa bên ngoài cửa lại, dùng khoan điện khoan thủng tường, gắn một thanh sắc
lớn chắn ngang qua, hàn lại rồi bỏ mặc người ta sống chết trong ngôi nhà đó.
Trước khi bỏ đi, họ dán một mảnh giấy trên cửa ghi, đại để như “Nhà này có người
nhiễm bệnh.” Clip còn cho thấy, nhiều người bị nhốt trên tầng cao chung cư đập
cửa sổ thò tay ra ngoài vất cả mớ tiền giấy xuống đất, nhưng không ai buồn đến
nhặt, kể cả cái bọn đi bắt người, có lẽ bọn chúng cũng vừa làm theo lệnh vừa
run, vì chúng hãi hùng khi thấy người ta chết hàng loạt. Những đồng tiền đã bị
nhiễm virus, có lượm xài rồi cũng đi đoong, cũng như hàng đống Iphone (nghe nói
các hảng điện thoại bên Trung Quốc đã bị “mất trắng” mười mấy hai chục triệu
phone line, mà không có chuyển qua công ty nào khác, chứng tỏ các chủ nhân đã
chết) chất chồng cạnh lò thiêu xác rồi sau đó bị ném vào lò thiêu vì đâu ai dám
lấy. Thế mà bọn chính quyền Trung Quốc mồm loa mép giải ra rả tuyên bố là dân của
chúng chỉ bị…chết dịch có mấy nghìn.
Có những nạn nhân bị khóa cửa nhốt trên lầu cao mấy chục
tầng, lâu ngày đói khát người ta tìm cách phá cửa sổ trèo ra ngoài kêu cứu, thì
bị tuột tay rơi xuống. Tiếng thét thảm thương xé lòng trên đường rơi từ cửa sổ
lầu mấy chục tầng xuống đất của nạn nhân làm tôi bủn rủn tay chân, cổ nghẹn lại. Bụng tôi rất đói, đĩa bánh xèo ban chiều vẫn
còn hấp dẫn, nhưng bây giờ tôi thấy nuốt không vô, nên buông đũa không ăn nữa bỏ
vô phòng computer.
Mở máy đọc email, tôi lại thấy giận no hông vì những hình
ảnh bạn bè gửi tới. Một nhà hàng lớn ở Trung Cộng treo tấm băng rôn đỏ chóe thật
to thật dài trên đó ghi những lời mà người Việt dịch ra đại ý như “Chúc mừng nước
Mỹ đã nhiễm dịch Vũ Hán, và chúc mừng nước Nhật bé xíu bị nhiễm dịch, cầu mong
cho sự nhiễm dịch này được Thiên trường Địa cửu.” Thật không thể tưởng tượng nổi
trên trái đất này lại có loài người vô nhân tính đến mức thấy người hoạn nạn chết
chóc lại đi chúc mừng! Đúng là bọn “rau nào sâu nấy!” Người dân cộng sản Trung
Cộng cũng bị nhiễm cái tính dã man tàn ác từ bọn lãnh đạo đảng và nhà nước họ.
Vậy mà chúng bày đặt đi xây Học Viện Khổng Tử khắp nơi trên thế giới để giảng đạo
đức. Nhưng thực tình mà nói, cũng không
phải lỗi hoàn toàn ở người dân nước này. Nhiều tin tức cho thấy bọn Tàu Cộng là
thủ phạm phát tán loại virus độc hại này, mà gần đây chúng tìm cách đổ lỗi cho
Hoa Kỳ đem Virus gieo rắc cho chúng, nên người dân mới tỏ thái độ thù nghịch với
nước Mỹ bằng những hành xử không còn tính người như vậy.
Nói đến sự tráo trở “gắp lửa bỏ tay người” của bọn Trung
Cộng, tôi chợt nhớ vừa rồi tôi có nghe đài “Radio AM900 Houston,” ông Nguyễn
Chính Kết phỏng vấn GS TS Mai Thanh Truyết (TS MTT), nhà môi trường học Mỹ, về
đề tài “Dịch Corona Virus Wuhan.” Trong
cuộc phỏng vấn, TS Mai Thanh Truyết có đề cập đến tính gian manh của Trung Cộng.
Khi dịch Vũ Hán bắt đầu hoành hành, chính quyền cộng sản Trung Quốc đã tìm cách
che đậy, chúng “bưng bít thông tin cũng như mua chuộc tổ chức y tế thế giới –
WHO nhằm công bố hạn chế mức độ nguy hiểm của virus corona,” lời TS MTT. Chúng
ém nhẹm đến khi người chết hàng loạt không thể nào che dấu được nữa mới bắt đầu
lộ ra, thì người dân của chúng, những người nhiễm bệnh từ Vũ Hán sau khi về quê
ăn Tết Nguyên Đán đã tràn tỏa đi lây lan khắp thế giới. Cũng theo sự khám phá của
TS MTT, thì đây là thuyết âm mưu của Trung Cộng nhằm hãm hại Hoa Kỳ, vì loại
virus này là vũ khí sinh học mà lâu nay họ nghiên cứu tại một nhà máy sinh học ở
Vũ Hán. Ông Dany Shoham, một cựu nhân viên tình báo quân sự người Israel,
chuyên gia vũ khí sinh học, đã đưa ra nhận định trong bài phỏng vấn với tờ
Washington Times sau khi chính quyền Trung Cộng công bố bệnh dịch, rằng
coronavirus có thể đã xuất phát từ một phòng thí nghiệm ở Vũ Hán, thậm chí có
liên quan đến các chương trình nghiên cứu vũ khí sinh học của Tàu Cộng. TS MTT
cho biết.
Điều này có lẽ đúng, vì chính quyền Trung Cộng có tật giật
mình, đã nổi điên khi bị ai “chỉ danh” nguồn gốc của virus. Mới đầu, các chuyên
gia y tế Trung Cộng gọi “Pneumonia Wuhan” rồi có lẽ được lệnh trên, họ thay đổi
vòng vòng, và sau cùng Trung Cộng nhờ WHO đổi thành COVID-19. Nên khi ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo gọi Virus
Vũ Hán (Wuhan Virus) hoặc TT Mỹ Donald Trump dùng chữ “Vi Khuẩn Tàu” (China
Virus) thì họ lồng lộng lên la ó phản đối.
Sự gian manh của Trung Cộng đâu phải chỉ có bấy nhiêu. TS
Mai Thanh Truyết còn tìm ra, họ có chiêu trò che mắt thế giới, báo cáo “ma” về
việc đã chận đứng được bệnh dịch. Trong khi những nước bị lây lan, đang hoảng
loạn tìm cách ngăn chặn mà con số nạn nhân cứ tăng lên vùn vụt một cách chóng mặt,
thì bên Trung Cộng, “quốc mẫu” sản sinh ra Virus Vũ Hán lại được thông báo là
đã ngăn chặn hoàn toàn. Các công ty ở
Trung Quốc ở Chiếc Giang và Bắc Kinh giả bộ tạo ra như đang hoạt động, “Tìm
cách gian lận bằng cách làm cho điện sáng, máy chạy cả ngày dù không có người,
hoặc mở đèn và điều hòa không khí cả ngày dù trong các văn phòng không người,
và ngoài đường vẫn không thấy một bóng người hay xe cộ qua lại.” (TS MTT)
Nhưng nếu quả thực Trung Cộng chặn đứng được dịch bệnh,
thì điều này cho thấy, họ đã chuẩn bị kỹ, đã chế tạo thuốc đặc trị cho Virus Vũ
Hán trước khi phát tán ra, và như vậy là họ đã có ý định dã man: Giết chết bớt
một số dân vì nạn nhân mãn, kèm theo là cho gieo rắc lây lan, giết hại người
trên hoàn cầu. Và nếu quả thực vậy, thì những kẻ ác gian này tất sẽ bị quả báo.
Nhưng không biết đến khi nào bọn chúng mới bị quả báo
đây? Chắc sớm thôi! TS Mai Thanh Truyết có kể trong cuộc phỏng vấn, là nhà khí
tượng học người Mỹ tên Lorenz Edward Norton vào năm 1970 “đã từng diễn giải về
hệ thống thời tiết rằng con bướm đập cánh ở Brazil có thể gây ra cơn bão lớn ở
Texas. Hiện nay, tình trạng bùng phát và lây lan của dịch bệnh ‘viêm phổi ở Vũ
Hán’ cũng đang phản ánh dạng ‘hiệu ứng cánh bướm’ này: Một bệnh dịch, kéo theo
khủng hoảng kinh tế, gây bất ổn chính trị làm người dân phẫn nộ… có thể làm sụp
đổ chế độ Đảng Cộng Sản Trung Hoa và làm thay đổi lịch sử của nước Tàu.”
Cũng nói đến chuyện quả báo, không phải khoa học như TS
MTT, mà là về tâm linh. Chị Dung bạn thân tôi từ Ohio tin rằng “quả báo” đang xảy
ra, bọn Trung Cộng đang bắt đầu trả nghiệp ác. Chị kể, dạo này có nhiều tin rầm
rộ trên mạng toàn cầu, người ta nhắc lại những câu Sấm Trạng Trình, các nhà
tiên tri, các “dị nhân” đều tiên đoán năm nay 2020 là năm khởi đầu cho ngày tàn
của bọn cộng sản Trung Cộng và các đảng đàn em trên thế giới, để cho nhân loại
được hưởng thái bình. Mỗi lần bà ấy gọi là tôi được nghe thêm vài câu Sấm Trạng
Trình bà mới học từ trên YouTube. Nào là ngài Trạng từng nói, “Nhà cha cửa đóng
then cài,” chỉ rõ hiện giờ nhà cha…nhà mẹ gì cũng đóng cửa hết! Rồi đến “Chuột
nọ lăm le mong cản tổ,” là năm nay đúng năm Canh Tý và trận đại dịch bắt đầu khắp
hoàn cầu nên chuột đã “cản tổ” đóng cửa hết, không cho nước nào đến nước nào! Rồi
thì là “Can qua tứ xứ loạn đao binh” cũng …đúng luôn, vì hiện tại trên thế giới
bốn biển (tứ xứ) đang loạn cào cào, lớp thì lo chống “giặc dịch” Vũ Hán do
Trung Cộng truyền sang, lớp lo chống bọn bành trướng Bắc Kinh lấn đất giành biển,
chống sản xuất thuốc giả, hàng giả, bán giá rẻ mạc để chiếm lĩnh thị trường thế
giới v.v…
Có điều này khá thú vị, một trong những vị “thần cơ diệu
toán” mà chị Dung nói, lại là một ông chủ
kiêm tổng giám đốc một hảng tiện ở California. Chị Dung tận tiểu bang Ohio lại
hỏi chuyện về ông Ngô Tuấn Kiệt chủ dãy núi Thiên Long Sơn ở thành phố
Milpitas, California, mà tôi dân Cali lại chưa hề biết tới, vì tôi mới dọn về
đây chưa lâu. Xem cái YouTube PhoBolsaTV
chị gửi, tôi mới biết về doanh nhân triệu phú gốc Việt này, là chủ hảng tiện rất
thành công KNT, INC ở Bắc Cali. Song
song với việc điều hành hảng tiện của mình, triệu phú Ngô Tuấn Kiệt đã mua dãy
núi đẹp như cảnh Tiên, rộng đến 360 Acre và lập thành Công Viên Tâm Linh vô
cùng độc đáo. Nhiều bức tượng các anh hùng, danh nhân Việt Nam được xây dựng thật
trang nghiêm trên núi, như tượng đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông, tượng Lạc Long
Quân và bà Âu Cơ, đức Trần Hưng Đạo, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Trung Trực, Phật Thầy
Tây An, v.v… tất cả các bức tượng đều được gắn bản ghi chú, giải thích rõ ràng
bằng tiếng Anh và tiếng Việt về lịch sử của từng vị.
Theo lời Ngô Tuấn Kiệt trả lời phỏng vấn của PhoBolsaTV,
thì mục đích ông lập nên Công Viên Tâm Linh này để “bảo tồn Văn Hóa Việt Nam
nơi hải ngoại, để người Việt và các thế hệ sau này luôn nhớ về cội nguồn, và
cho người nước ngoài biết được Việt Nam mình có một nền văn hóa rất vững vàng,
một dân tộc quật cường không thua gì người Do Thái.” Mỗi cuối tuần, vợ chồng
ông Kiệt đều đưa con cái lên Thiên Long Sơn, lo chuẩn bị thức ăn đãi những bữa
cơm chay miễn phí cho hàng trăm, có khi hàng nghìn khách du lịch đến thăm viếng,
cầu nguyện, và cầu xin may mắn trong những dịp lễ, Tết, vì có nhiều lời đồn nơi
này “Rất linh thiêng cầu gì được nấy.”
Đặc biệt, dường như ông Kiệt có sự nhạy bén thiên phú về
tâm linh, và sự tiên đoán độc đáo của ông về tương lai thế giới, Trung Cộng, và
Việt Nam. Trong cái video năm 2018, ông Kiệt đã khuyên mọi người nên chuẩn bị dự
trử thức ăn nước uống cho đầy đủ vì vài năm sắp tới sẽ có nhiều diễn biến kinh
hoàng khắp thế giới. Những lời ông tiên
đoán về năm 2020 đến nay tôi mới được nghe, nghe mà dựng cả tóc gáy, là ông kêu
gọi mọi người chuẩn bị đầy đủ thức ăn, nước uống trong nhà, vì sắp tới vào năm
2020 sẽ có tai ách lớn xảy ra. “Mọi người hãy nghe tôi đi, nếu dự trử đồ ăn thức
uống từ nay cho đến năm 2020 mà không dùng hết thì hãy đem tới đây, tôi bảo đảm
sẽ trả tiền lại đầy đủ cho quý vị!” Ông Kiệt còn tiên đoán, trong tương lai sắp
tới cộng sản Trung Quốc và Việt Nam đều sẽ bị thay đổi, sẽ được thay thế bằng
những vị Minh Quân, và nhân loại sẽ được hưởng thái bình.
Dù không biết những tiên đoán trên có đúng hay không,
nhưng tôi đã nghĩ đến chúng trong lúc này, cái lúc mà khắp nơi đang căng thẳng
về đại dịch, thì tôi cứ tạm hy vọng, tạm gạt mình tin để được nhẹ lòng. Giờ đã
quá nửa đêm, bên ngoài vẫn còn mưa rơi, tiếng gió vẫn hun hút, không khí lạnh vẫn
tiếp tục len vào, nhưng trong lòng tôi đang nhen nhúm một chút ấm áp. Xin nguyện
cầu cho những tiên đoán trên trở thành sự thật. Và nhất là, xin nguyện cầu cho
cơn đại dịch Virus Vũ Hán sớm chấm dứt, trả lại sự bình yên, hạnh phúc cho Hoa
Kỳ và nhân loại trên khắp hành tinh.
Phương Hoa – Đêm cuối Tháng Ba 2020
Sao Mùa Thu ?
Sao mùa Thu lá đỏ
Lên rực rỡ lòng em
Sao tình anh vừa đến
Làm thu hồng rực thêm
Sao hồ thu tĩnh lăng
Mà lòng em xôn xao
Sao mắt nhìn chẳng nói
Mà muôn vạn lời trao
Sao bỗng nhiên trời lại
Muôn màu sắc tuyệt vời
Vẽ tình yêu tô dáng
Vẽ nhịp lòng trong thơ
Sao nai vàng ngơ ngác
Bước lạc đứng bên bờ
Chân dẵm lên màu lá
Âm thanh xào xạc xa
Sao môi em lại ướt
Nụ hôn thu dạt dào
Sao tự nhiên anh hỏi
Mùa Thu chờ bao lâu
Sao gió thu lại hát
Tiếng sáo diều năm xưa
Cho lòng em thổn thức
Một tuổi tròn trăng mơ.
Lê Mỹ Hoàn
10/2020
Trời đã vào Thu, lá trên cành cây chung quanh nhà tôi đã
đổi màu tuyệt đẹp, vàng cam, hồng hồng, vàng tươi….Thỉnh thoảng một cơn gió thoảng
qua là hàng ngàn chiếc lá rơi như đàn bướm lượn, đẹp mắt vô cùng.. Nhìn lá vàng
rơi tôi nhớ đến những lần đi du ngoạn mùa Thu với bạn bè cùng sống trong vùng,
do một nhà văn kiêm nhà thơ lão thành khởi xướng và hướng dẫn. Anh như con chim
đầu đàn, từng là chủ bút các Tuần báo, Nguyệt san ở Việt nam và Hoa kỳ, xuất bản
nhiều tâp thơ, truyện ngắn, truyện dài… Nhìn thác nước, trời xanh hay bất cứ cảnh
đẹp nào anh là sáng tác một bài thơ.Tuổi cao nhưng thơ văn anh ướt át, tình cảm
đậm đà chẳng khác chi người trẻ tuổi. Anh yêu thiên nhiên, sông núi, yêu quê
hương, và yêu… người đẹp.
Theo anh con người có thể đẹp về thể chất hay tâm hồn.
Lúc nào gặp cũng thấy y phục anh cũng tươm tất, chỉnh tề. Tóc anh bạc trắng như
ông tiên nhưng nếu ai hỏi anh bao nhiêu tuổi, anh chỉ cười và bảo nhà văn nhà
thơ không có tuổi. Lúc chị còn ở trên đời, anh là người chồng tốt, chăm sóc,
đưa vợ đi đây đó. Chị bệnh anh tận tình chạy chữa, săn sóc thưc ăn giấc ngủ.
Anh còn chịu khó đón đưa các bạn khác đến nhà chơi mà chược với chị cho chị
vui. Vì phần lớn thơ anh là thơ tình, ngọt ngào, nên tôi hỏi chị có ghen tị với
những người tình trong thơ văn của anh không. Chị trả lời liền, “đó là nguồn cảm
hứng để sáng tác, không có thật đâu.” Hỏi chị nếu có kiếp sau chị có bằng lòng
làm vợ anh lần nữa không, chi trà lời là “bằng lòng cả hai tay”, vui chưa.
Chị mất ít lâu anh có bạn gái. Tại sao không? Có người
trò chuyện cho vui khoảng đời còn lại là điều may mắn, không phải ai cũng có được
ở tuổi vàng như anh. Anh quan niệm sống một ngày vui một ngày. Buồn bã, âu sầu
phiền muộn ảnh hưởng đền sức khỏe, mang bệnh làm phiền gia đình là không có
anh. Các con anh có hiếu, mua xe mới để anh đi lại và đưa đón… bạn gái cho an
toàn.
Theo anh tình yêu là đề tài không bao giờ chán từ ngàn
năm trước, từ Âu sang Á, từ vị vua sang cả cho đến thường dân áo vải chân đất.
Vì tình yêu mà hoàng tử nước Anh chia tay với vợ, một công nương xinh đẹp, cưới
một phụ nữ lớn tuổi có chồng có con, nhan sắc thua kém vợ mình rất xa. Vì tình
yêu các bà vợ tù không quản ngại đường xá xa xôi, từ Nam ra Bắc tay xách, nách
mang, lội suối qua đèo thăm chồng trong trại cải tạo.
Và hôm nay vì tình yêu cô bạn Hảo của tôi cũng ngất ngư,
nàng xin nghỉ một ngày để đến tôi chơi và tâm sự. Hảo có bạn trai. Hai người quen nhau trên mạng lưới.
Lúc đầu tưởng là trò chuyện cho vui ai ngờ thành bạn thân. Họ nghiện thư nhau từ
lúc nào chẳng biết. Không có thư thì mong. Xa cách nhau mấy ngàn dặm nhưng họ
điện thư cho nhau hàng ngày, kể cho nhau nhưng chuyện bình thường trong ngày,
trên báo chí sách vở, tin tưc …
Hảo học ở anh tính lạc quan, hiếu học. Tục ngữ, ca dao,
văn, thơ, địa lý, lich sử, âm nhạc bạn Hảo giảng trơn tru. Ngoài ra bạn Hảo có
tính thương người. May mắn được chỗ làm tốt, có lương cao, anh thường giúp đỡ
người nghèo, bệnh tật ở quê nhà. Hảo muốn đóng góp với anh trong việc thiện
nhưng anh bảo có thể lo nổi môt mình. Anh chuyễn cho Hảo xem thư cám ơn của cá
nhân hay hội đoàn. Anh cũng hay nhắc tới người Mẹ đã qua đời với lòng ngưỡng mộ,
kính yêu. Lúc sinh tiền bà đã nêu gương tốt cho con, hay giúp đỡ, cưu mang người
nghèo khó.
Bạn Hảo còn là người khéo nói. Anh nhẹ nhàng, ân cần, và
có tình khôi hài. Được điên thư anh, Hảo khúc khích cười một mình. Họ có cảm tưởng
rất gần gủi nhau tuy cách xa hàng 5, 6 giờ bay. Hảo vui khi nhận điện thư của bạn,
có khi 3, 4 lần một ngày cho đến khi Hảo hết hồn nghe bạn bảo ngơ ngẩn nhớ
thương, muốn vượt ngàn dặm đến thăm Hảo để tính chuyện lâu dài…Hảo phân vân.
Anh chưa hưu trí và ít tuổi hơn Hảo nhưng anh quan niệm giống số người Mỹ,
chàng kém tuổi hơn nàng vẫn có thể yêu nhau và ở với nhau lâu dài, Anh nêu trường
hợp của Halle Berry và Demi Moore… và anh nói tuổi tác chênh lệch, tiếng đời dị
nghị, anh không bận tâm. Anh bảo tuổi nào cũng đẹp, cuộc đời nào cũng đáng yêu
nếu biết sống cho hợp với tính tình mình, nếu biết yêu đời, biết yêu người và
biết vui, biết thụ hưởng những gì trời cho. Anh nói nếu muốn thì có thể xin đổi đi tiểu bang khác dễ dàng.
Xúc động, Hảo tự hỏi thương yêu lúc mùa thu của cuộc đời
thì có nên chăng? Hảo phân vân, vương vấn. Bao nhiêu năm lẻ loi, bận bịu với bổn
phận. Nay các con trưởng thành được nhàn hạ tung tăng, gặp chuyện này thật là
chẳng giống ai. Truyện Kiều đã có câu
Ma đưa lối, quỷ dẫn đuờng
Tìm chi nhưng lối đoạn trường mà đi …...
Thật là bỏ thi thương, vương thi tội. Hảo bàn với tôi có
nên khuyên anh quên đi “dự tính lâu dài”
của anh chăng. Bạn bè quý mến nhau, chia sẻ , tâm sư với nhau là quý lắm rồi,là
ơn phươc bề trên, tham lam chỉ cực thân
thôi.Thừơng quen biết thì nhiều nhưng bạn
thân có được mấy người, hiếm như mưa sa mạc. Nghe Hảo tâm sự tôi nhớ lại bài
TINH GÌA của Phan Khôi:
……..Ôi, đôi ta tình thương nhau thì đã nặng
Mà lấy nhau thi không đặng…
Nhưng ………..
Buông nhau thì sao nỡ ….
Theo tôi mỗi người môt duyên phân, tùy quan niêm mỗi người.
Nếu có thể đem niềm vui đến cho bạn mình và bản thân, không làm phiền kẻ khác,
tại sao không. Đó là ý kiến của người quê mùa nhưng Hảo quyết đinh mà thôi.Vả
lại đâu cần phải sống chung mới hạnh
phúc. Nhà thơ niên trưởng kể với tôi mỗi ngày ông tặng cho ngươi yêu một bài
thơ dù nàng không phải là thi sĩ. Thỉnh thoảng anh mới găp và đưa nàng đi nghe nhạc, xem phim… Anh vui, khỏe mạnh
cho đến khi lìa đời thình lình vì bệnh tim (?) và các con cũng vui lây.
Nhìn ra sân hoa cúc đang nở rộ màu sắc rực rỡ nhưng sẽ
phai tàn, buồn hiu khi mùa Đông đến và tôi chợt nhớ câu thơ của cô em Ngọc
Dung:
Xuân của đất trời, Xuân đi rồi đến
Xuân
của loài người, Xuân đến rồi đi
Tôi cầu mong Hảo và mọi người có đủ niềm vui , có tình
yêu thương,được hạnh phúc, sống vui trên
đời dù ở quê hương hay hải ngoại…
Ngọc Hạnh.
YÊU LÍNH
Em lớn lên trong đất nước chiến tranh,
Hình ảnh anh, người lính nào cũng đẹp,
Nghĩ về anh chỉ một điều đơn giản,
Được là người yêu của lính mà thôi.
Yêu anh hải quân tàu anh ra khơi,
Bảo vệ lãnh hải bao phen sóng gió,
Tàu về sông ngòi để em mong nhớ,
Mái tóc anh thơm mùi biển mùi sông.
Anh rời đất liền “Tổ Quốc Đại Dương”,
Cánh chim Hải Âu bay trên biển cả,
Tàu qua nhiều nơi, neo nhiều bến lạ,
Giữa biển trời có nhớ một bến em?
Yêu anh, người lính “Tổ Quốc Không Gian”,
Những phi vụ hành quân hay yểm trợ,
Anh bay bướm như tàu anh lướt gió,
Tình yêu này có giữ được anh không?
Chiến trường của anh không kể ngày đêm,
Mây trời trăng sao cũng vào cuộc chiến,
Anh bay giữa trời làm nên sấm sét,
Anh về thành phố người lính đa tình.
Yêu anh bộ binh vượt suối băng rừng,
Những khi tấn công, tuần tra, bảo vệ,
Mưa chiến tuyến mờ lối về phố chợ,
Nắng biên thùy làm bạc áo chinh nhân.
Yêu anh, người lính biệt kích xả thân,
Những chiếc trực thăng đưa người nhảy toán,
Thang dây này vội vàng anh bước xuống,
Bãi đáp kia ẩn khuất chốn rừng già
Đêm phòng thủ anh cài mìn Claymore,
Nhưng vắt rừng muỗi rừng không tránh khỏi,
Chiếc la bàn để anh không lạc lối,
Ám hiệu truyền tin hẹn đón anh về.
Yêu anh, những người lính trận xông pha,
Này pháo binh, biệt động quân, thiết giáp,
Người lính nhảy dù, thủy quân lục chiến,
Người lính nghĩa quân, lính địa phương quân.
Ai cũng là người lính của quê hương,
Người lính nào cũng vào sinh ra tử,
Ngủ võng trong rừng, ngủ trong hầm hố,
Bốn vùng chiến thuật đâu cũng là nhà.
Yêu anh, đời lính không đẹp như thơ,
Nhưng tình yêu đẹp như thơ anh nhé,
Anh xa xôi gian nan đời quân ngũ,
Em từng ngày hướng theo bước anh đi
Nguyễn Thị Thanh Dương
(Feb. 27- 2015)
***
ĐI THĂM NƯỚC MỸ
Ông Sĩ ngồi ở bàn, bên ấm chè nóng, ông đang tra thuốc
vào chiếc điếu cày và châm lửa hít một hơi, xong khoan khoái ngửa mặt ra thả một
làn khói bay mù mịt.
Bà Sĩ ngồi dưới đất, cạnh bàn, đang lo gói ghém lại các
món qùa trước khi bỏ vào túi xách cho chồng. Bà hài lòng khoe:
– Toàn là
cây nhà lá vườn ông nhá, long nhãn khô, măng khô, bột sắn giây, tự tay tôi làm
cả…Những thức này nghe nói ở bên Mỹ qúy hiếm lắm, tìm không có, đào không ra
đâu…
Ông Sĩ ra vẻ hiểu biết:
– Thiếu giống
gì, hàng của ta xuất khẩu sang Mỹ nhiều lắm, đến củ giềng ăn thịt chó cũng có nữa
là. Để sang Mỹ tôi sẽ ăn thịt chó Mỹ xem có béo không? Chó tư bản nhà giàu mà.
Ông Sĩ hớp một ngụm chè để vài giây cho thấm thía mới gật
gù:
– Tôi nói
cho vui chứ ở Mỹ người ta qúy chó lắm, có khi chó sướng hơn con người bên mình
đấy. Chè mộc Thái Nguyên ngon thật, bà có mua chè này mang sang Mỹ làm qùa không, hử?
– Sao không
chứ. Những gì ông dặn tôi mua tất….
Bà Sĩ đứng lên, phủi bụi quần và ân cần bảo chồng:
– Xong hết
cả rồi, ông đi ngủ sớm mai còn ra phi trường Nội Bài, mai tôi cũng dậy sớm nấu
cho ông nắm cơm nếp ăn đi đường.
– Gớm, bà cứ
làm như ngày xưa lúc tiễn tôi lên đường trở về đơn vị sau lần tôi hiếm hoi về
phép thăm nhà không bằng. Nhưng mà đi xuất cảnh sang Mỹ ai lại mang món cơm nếp
nhà quê này chứ?
Bà Sĩ âu yếm gắt:
– Ăn cho nó
chắc bụng, không gì bằng cơm nhà qùa vợ.
Ông đừng có mà sĩ diện.
Suốt mấy ngày nay, biết tin ông Sĩ sắp đi Mỹ du lịch, họ
hàng, làng xóm đã thăm hỏi, chúc mừng không ngớt, và nội bộ nhà ông cũng bận rộn
tíu tít, lo sửa soạn hành lý và tâm lý không ngớt.
Đời cứ như là mơ,
ông Tượng, người em của ông Sĩ di cư vào Nam từ năm 1954 và di tản sang Mỹ năm
1975 đã mời ông Sĩ chuyến đi du lịch này.
Ngày di cư ấy bố ông đã dẫn thằng em 12 tuổi vào Nam trước,
ông Sĩ ở nhà với mẹ, sẽ vào Nam sau. Nhưng chuyến đi Nam ấy không thực hiện được,
gây ra cảnh chia lìa một gia đình 4 người mà nửa Nam nửa Bắc.
Ông Tượng quyết không bao giờ trở về Việt Nam nếu đất nước
còn chế độ cộng sản, ông chỉ liên hệ với người anh duy nhất của mình qua thư từ
hay điện thoại và thỉnh thoảng gởi tiền về giúp anh chị.
Ông Tượng mời anh
sang Mỹ chơi, coi như một món quà hào hiệp tặng anh, trước là thăm thân nhân
sau là đi cho biết đó biết đây.
Hai anh em hai lý tưởng khác nhau, ông Sĩ đi bộ đội miền
Bắc suốt một thời tuổi trẻ để giải phóng miền Nam cho đến khi đúng tuổi giải
ngũ. Ông Tượng là lính miền Nam, chiến đấu chống lại quân đội Bắc Việt.
Sau chiến tranh hai anh em đều sống sót, nhà ông may mắn
thế, nhưng biết đâu có những nhà khác, anh em, cha con hay chú cháu đã đối diện
nhau nơi chiến trường, xả súng vào nhau để giành phần chiến thắng mà nào hay
tình máu mủ liên hệ…
Cha mẹ đều lần lượt qua đời mà chẳng thấy mặt nhau sau lần
chia ly vì thời cuộc ấy, chỉ còn hai anh em nên ông Sĩ háo hức muốn gặp lại thằng
Tượng em ruột của mình lắm..
Ngày xưa bố ông rất
mê chơi cờ tướng, nên đặt tên các con theo từng quân cờ, người anh cả mang tên
Nguyễn vănTướng qua đời khi lên 3 tuổi vì một cơn bạo bệnh, người con thứ hai
là ông Sĩ và người kế tiếp là Tượng thì mẹ ông phát bệnh gì đó mà không thể
sinh đẻ được nữa, nếu không thì anh em ông còn …kéo dài thêm mấy quân cờ nữa
như Xe, Pháo Mã, Tốt, vì thuở ấy nhà nào cũng bảy, tám đứa con là chuyện thường.
Ông Sĩ cũng háo hức muốn biết mặt mũi nước Mỹ nó ra làm
sao mà ghê gớm thế, có thể làm ảnh hưởng cả thế giới và một thời miền Bắc của
ông phải vất vả chiến đấu chống Mỹ, bao nhiêu thanh niên nam nữ lên đường thi
hành nghĩa vụ quân sự và bao nhiêu người đã gởi thây nơi rừng núi chiến trường
miền Nam, mất xác, mất tăm tích cho đến tận bây giờ.
Tất cả chi phí chuyến du lịch qua Mỹ dĩ nhiên đều do người
em lo. Nhà nghèo xác nghèo xơ, chuyện đi Tây đi Mỹ du lịch là một giấc mơ vĩ đại
cả đời ông không dám nghĩ tới, thì bây giờ cơ hội trong bàn tay dại gì ông từ
chối.
Sáng hôm sau
ông Sĩ thức dậy sớm, nhưng bà đã dậy sớm hơn ông từ lúc nào, cơm nếp nấu xong bà gói trong lá chuối, với một
gói muối vừng để tiện mở ra ăn. Đám con cháu
cũng lần lượt đến tiễn ông Sĩ lên đường. Thằng con trai cả sẽ làm nhiệm
vụ chở bố ra phi trường Nội Bài. Từ quê ông ra Hà Nội mất gần 1 tiếng, từ Hà Nội
ra phi trường Nội Bài mất thêm khoảng 40 phút nữa.
Hai bố con đến phi trường Nội Bài, bố con dặn dò nhau
xong thì ông Sĩ bước vào trong, ông hoa mắt vì lần đầu tiên trong đời mới được
biết phi trường là gì. Ông cầm cuốn hộ
chiếu chìa ra để trình bày và hỏi thăm, người ta chỉ cho ông chỗ xét gởi hành
lý trước..
Cô hải quan đanh đá thô bạo đưa tay bới túi hành lý, cô định
mở từng bọc một thì ông Sĩ biết điều móc túi ra, ông tần ngần suy nghĩ, nó
trông phong lưu và đẹp người thế, trong khung cảnh phi trường hoành tráng thế,
mà đưa tiền ít chắc không xứng đáng lại thêm rắc rối?
Ông đành lấy ra 5 trăm ngàn đồng Việt Nam dúi vào tay cô,
kẻo cô mở tung toé ra thì giờ đâu ông xếp lại cho được :
– Chẳng có
gì đâu, ít thực phẩm khô làm quà thôi mà…
Nhận được tiền, cô hải quan dịu dàng tươi tỉnh ngay:
– Thế mà
bác không nói cho cháu biết trước. Thôi, bác yên chí, hành lý này sẽ chuyển lên
chuyến bay với bác.
Kinh nghiệm lo xa của ông thật hữu ích, ông đã bảo bà để
một số tiền mặt cho ông “đi đường”, hễ có giao thiệp với bất cứ nhân viên cấp
nào, ngành nghề nào phải có tiền mới giải quyết được sự việc. Tiền có sức mạnh
ghê gớm, tiền cất tiếng nói thay người.
Xong việc ký gởi hành lý, ông Sĩ thảnh thơi ôm cái xách
tay và lại hỏi thăm chỗ đăng ký lên máy bay, lại hết chỗ nọ đến chỗ kia, cuối
cùng ông đã tìm ra đúng chỗ, ông đang ngơ ngác chưa biết phải làm gì thì bị anh
hải quan ngồi sau chiếc bàn dài, mặt non choẹt, quát xa xả:
– Ông kia,
đưa giấy tờ đây, làm mất cả thì giờ của người khác.!!
– Vâng ạ,
có hộ chiếu xuất cảnh đầy đủ đây ạ…người xuất cảnh là tôi Nguyễn Văn Sĩ, sinh
năm.…
Anh Hải Quan bực mình ngắt ngang:
– Khi nào cần
tôi hỏi, ông không phải khai. Giấy nhập cảnh nữa, xuất khỏi đây ông sẽ đến đâu.
Đấy là thủ tục.
Ông lại móc túi quần qua hai ba lớp gói, lớp bọc để lôi
ra giấy nhập cảnh trân trọng đặt lên mặt quầy cho anh hải quan. Tướng tá sang cả
và mặt anh ta lạnh lùng càng làm ông Sĩ cảm thấy mình thấp hèn và hồi hộp như một
kẻ đang đợi được ban ơn:
– Thưa anh,
thế đủ chưa ạ ? cần gì nữa không ạ?
Anh hải quan lại quát:
– Ông ạ, ạ..gì
mà lắm thế? có im đi không cho người ta làm việc.
Ông Sĩ im ngay tức khắc, liếc nhìn sang anh hải quan bên
cạnh đang “làm việc” với một người nước ngoài, nhã nhặn, lịch sự, ông ngạc
nhiên tự hỏi :” Hai anh hải quan này cùng làm một việc, nhưng tính khí khác
nhau? hay chắc tại mình và ông nước ngoài kia khác nhau? mà hai cảnh đối xử một trời một vực thế nhỉ?”
Anh hải quan của ông đã xét giấy tờ xong, anh ta đẩy mạnh
mớ giấy tờ về phía ông, suýt nữa thì cuốn sổ hộ chiếu quá đà rơi xuống đất nếu
ông Sĩ không nhanh tay đỡ kịp.
Anh hải quan không thèm nói một câu, nhưng ông biết là đã
xong, vội thu gom giấy tờ của mình bỏ vào bọc vào túi và bước theo lối có mũi
tên chỉ dẫn để ra chỗ cổng vào máy bay, để nhường chỗ cho người khác tiến lên.
Tới đây tưởng đã được yên thân, nhưng khi ông cẩn thận và
thân ái hỏi một cô mặc đồng phục nhân viên phi trường đang ngược chiều đi đến :
– Có phải lối này ra chỗ máy bay không cháu?
Thay vì trả lời 3 chữ “vâng đúng rồi” để tiết kiệm năng
lượng trong người, cô gái tốn công cau có, gắt gỏng bằng một câu dài hơn:
– Có một lối này ông còn hỏi gì nữa…?
Ông Sĩ bất chấp lối ăn nói “sinh sự” ấy, vẫn tươi cười và thân ái:
– Thế hả, bác cám ơn cháu.
Vừa trả lời ông Sĩ vừa rảo bước thật nhanh, kịp lúc người
ta đang gọi loa mời hành khách lên máy bay.
Vào trong máy bay gặp các cô tiếp viên Việt Nam, ông Sĩ lại…giật
mình vì cảm thấy chưa thoát nạn, nhưng ông tự trấn an : “ Đã ngồi vào trong máy
bay là chắc ăn rồi, có bị chúng nó gắt gỏng nữa cũng không thành vấn đề”.
Các cô tiếp viên hàng không Việt Nam trông ai cũng sáng sủa,
trẻ đẹp và sang cả như mấy người hải
quan lúc nãy, ông Sĩ tự kết luận phi trường là chỗ làm việc của những đứa con
nhà giàu quyền thế, khác hẳn với mấy đứa cùng trang lứa ở quê ông, mặt mày tối
tăm, ngu dốt và đáng thương như miếng thịt ôi trên phản thịt chợ chiều 30 Tết.
Các cô tiếp viên hàng không đẹp mà kiêu kỳ xa cách qúa,
ông lại tưởng như mình không phải là hành khách trên chuyến bay, mà đang đi nhờ
họ thì đúng hơn, nên ông không dám làm phiền, biết thân biết phận ngồi gọn gàng
và im thin thít tại chỗ, dù có nhiều thứ lạ, ông muốn cất tiếng hỏi han lắm,
nhưng chẳng dại gì mở miệng để bị mắng như lúc nãy hỏi đường cô nhân viên..
Máy bay rời Việt Nam đến phi trường Nhật Bản, ông lại lạc
vào mê cung lần nữa, kinh hoàng hơn vì chung quanh không còn nhiều người Việt
Nam.
Thà bị mắng, bị gắt như ở phi trường Nội Bài còn là đất
nước Việt Nam, con người Việt Nam, còn dễ dàng hỏi thăm, đằng này xứ lạ quê người.
Nhưng khi ông chìa vé, chìa hộ chiếu ra chẳng biết nói
câu tiếng Nhật nào mà cũng được người ta giúp đỡ rất tận tình, dẫn tay ông ra tận
chỗ cổng máy bay mà ông cần. Thế là ông nhẹ cả lòng, ngồi tại chỗ quyết không
đi đâu xa, sợ lạc mất cái cổng máy bay này. Bây giờ ông Sĩ mới thong thả mở gói
cơm nếp của bà vợ ra ăn trong thời gian chờ máy bay mấy tiếng đồng hồ. Từ phi
trường Nội Bài gặp các sự sách nhiễu vô lý, ông thấy gói cơm nếp của vợ thật có
lý, có tình.
Lên chuyến bay ở Nhật, từ Nhật cách Việt Nam chẳng bao
xa, mà không khí, con người đã khác nhau xa, nhân viên trên máy bay ân cần giúp
đỡ ông tìm ghế ngồi, chỉ cách cài dây an toàn, và giúp ông để túi hành lý vào
khoang tàu với nụ cười và nét mặt tươi tắn..
Lần này ông ngồi gần khung cửa sổ và tâm hồn tự tin thanh
thản hơn nên tha hồ làm chủ tình hình, ông ngả đầu ra ghế để nhìn ngắm bên
ngoài, từ lúc máy bay từ từ lăn bánh, rồi lấy đà cất cánh lên cao dần, thành phố
càng lúc càng xa ở phía dưới, ông sợ lắm, nhưng cũng thú vị lắm, không ngờ
trong đời mình có lúc được đặt chân vào phi trường để xuất ngoại, được “đi mây
về gió” thế này.
Các cô tiếp viên Nhật Bản cũng xinh đẹp, lịch lãm, cao
sang không thua gì các cô tiếp viên hàng không Việt Nam nhưng họ thật là thân
thiện, họ mỉm cười kiên nhẫn nhìn ông ra dấu chỉ trỏ các món thức ăn nước uống
nào mà ông muốn trên suốt chuyến bay dài từ Nhật đến nước Mỹ xa xôi. Bây giờ ông thật sự là một
hành khách được phục vụ tận tình và trân trọng.
Ông náo nức nghĩ đến nước Mỹ, nghĩ đến thằng em và đám
con cháu nhà nó, cũng như họ hàng làng nước mà ông có thể sẽ gặp trong thời
gian thăm viếng Mỹ.
Xuống tới phi trường Los Angeles tiểu bang California lúc
12 giờ trưa hôm sau, ông Sĩ thêm một phen choáng váng đến hoang mang, phi trường
to lớn và náo nhiệt như cả thế giới, toàn thể nhân loại đều tụ họp ở đây, người
ta nói đủ thứ tiếng làm ông nghe mà điếc cả tai.
Ông lắng tìm nghe tiếng Việt Nam, nhìn khuôn mặt Việt Nam
và đi theo họ cho chắc ăn, ông chỉ có một túi hành lý ký gởi nên hải quan Mỹ
làm rất nhanh chóng. Họ hỏi, thì có người hành khách Việt Nam bên cạnh dịch lại
cho ông, ông trả lời không mang thực phẩm có thịt, cá . Thế là anh hải quan xét
hàng tin ngay, chẳng buồn mở ra kiểm tra ông nói thật hay không. Người Mỹ sao
mà dễ tin người thế chứ.
Xong ông xếp hàng dài chờ trình giấy tờ nhập cảnh vào Mỹ
mà lòng vẫn chưa hết kinh ngạc vì anh hải quan Mỹ xét hàng vừa rồi, ông vui lây
và tự hào vì đã được người ta tin tưởng vào lời nói của mình.
Người này tử tế bao nhiêu ông lại nghĩ đến người kia bấy
nhiêu, nét mặt câng câng đáng ghét của cô hải quan xét hàng hóa ở phi trường Nội
Bài khi lục mở túi hành lý của ông, và bộ mặt ấy bỗng biến thành tươi cười hơn
hớn khi nhận được tiền ông đút lót.
Bây giờ so sánh
hai sự khác biệt, ông mới thấy đau đớn vì tiếc tiền, ông lẩm bẩm chửi khẽ:
– Tiên sư con quạ
mổ! Tiên nhân con nặc nô ! làm tao mất toi năm trăm nghìn đồng bạc.
Đến lượt ông Sĩ đối diện với ông hải quan Mỹ, ông nộp giấy
xuất nhập cảnh ra, nhìn ông hải quan Mỹ to béo kềnh càng, ông Sĩ khiếp vía, ông
Mỹ chưa quát tháo gì mà ông Sĩ đã hồi hộp, mồ hôi như rịn cả ra dù trong điều
kiện không khí mát lạnh.
Xem xong các giấy tờ một cách thành thạo và nhanh chóng,
ông hải quan Mỹ nhìn ông Sĩ và nói:
– Welcome
to USA.
Ông Sĩ chẳng hiểu gì, hồn vía lên mây, vội vàng lục túi
áo, túi quần, thì chị Việt Nam đứng cạnh bên ngạc nhiên hỏi:
– Bác tìm
gì thế?
Ông ghé tai chị Việt Nam nói nhỏ:
– Chẳng biết
ông hải quan Mỹ hạch họe gì, giấy tờ tôi đủ cả, thôi cứ biếu tiền cho xong chuyện.
Ở đây họ có tiêu tiền Việt Nam không?
Chị Việt Nam bật cười như vừa bị ai thọc vào nách:
– Bác ơi là
bác, ai hoạch họe gì bác, ông hải quan nói lời chào mừng bác vào đất nước Mỹ đấy.
Ông Sĩ ngạc nhiên kêu lên:
– Thế à? Ai
quen biết gì nhà ông ấy mà chào mừng nhỉ …
– Thì họ lịch
sự xã giao mà bác.
Giây phút này ông Sĩ nhớ ngay đến bộ mặt trơ trơ lạnh
lùng và cách ăn nói hỗn hào, trịch thượng của anh hải quan ở phi trường Nội
Bài, anh ta là người Việt Nam, đáng tuổi con cháu ông mà cư xử với ông còn thua
ông hải quan người Mỹ khác giòng, khác giống này nữa.
Chị Việt Nam giục:
– Thôi bác
cất giấy tờ kẻo rơi mất và ra ngoài đi, chắc người nhà bác đang đợi bên ngoài đấy…
Ông Sĩ hớn hở khóac túi xách lên vai, tay còn lại xách
cái túi lớn và đi theo dòng người ra ngoài…
Ông đi từ ngơ ngác này đến ngơ ngác kia khi nhìn cảnh và
người xung quanh, cho đến khi cả đám thân nhân chạy ùa ra đón ông:
– Anh Sĩ đấy
à? Em là Nguyễn văn Tượng đây…
– Chào bác
Sĩ, chúng cháu là con ông Tượng.
Ông không thể nào nhận ra thằng Tượng em ông ngày xưa,
ông từng cõng nó trên vai dù hai anh em suýt soát tuổi nhau, bây giờ nó bệ vệ hồng
hào, khiến ông phải thốt lên:
– Giời ạ,
chú Tượng mà tôi cứ tưởng ai, dù nhìn hình rồi mà tôi vẫn không nhận ra chú, trông cứ như tổng giám đốc hay thủ
trưởng cơ quan ở thủ đô Hà Nội. Nhưng sao chú vẫn nhận ra tôi, hở?
Ông Tượng thành thật:
– Dĩ nhiên
là qua hình anh gởi, nhưng nhìn thấy một ông Bắc kỳ ngơ ngác giữa phi trường
Los. này thì không ai ngoài anh.
Ông Sĩ vẫn chưa tỉnh cơn mê:
– Người ở đâu mà lắm
thế ! cứ ồn ào và nhốn nháo như tôm tươi nhảy trong rổ …
Mọi người lên xe hơi để về nhà, vì con cháu ông Tượng ra
đón đông nên phải đi ba xe làm ông Sĩ thầm thán phục khi biết chúng nó đứa nào
cũng có ô tô riêng.
Ông chợt nhớ ra vội dặn dò con ông Tượng:
– Này các
cháu, chạy xe cẩn thận nhé kẻo xe bốc
cháy như ở Việt Nam đấy.
Ông Tượng trấn an lại ông anh:
– Anh đừng lo, hiện
tượng xe gắn máy và xe hơi bốc cháy chỉ có ở Việt Nam, chắc vì xăng dầu bị pha
chế do lòng tham của con người mà ra thôi.
Xe hơi chở ông Sĩ từ phi trường Los Angeles đi vù vù qua
những con đường, lên đến highway 405 song song là 6 hàng xe làm ông Sĩ không
tin vào mắt mình, ông cẩn thận đếm đi đếm lại mấy lần. Trên đầu ông cũng là cầu
highway, ông nhìn phía trước, những đường cầu highway chạy dài chồng chất hai
ba tầng, tạo thành những đường cong uốn lượn, chỗ cao chỗ thấp vừa hoa mỹ vừa
hiện đại với dòng xe cộ nườm nượp mà chóng cả mặt.
Đường xá ở Mỹ sao mà cao siêu và vĩ đại thế, nơi đâu cũng
toàn xe là xe, đông như đi chảy hội, mà tuyệt nhiên ông Sĩ không nghe một tiếng
còi xe nào, chả bù cho tại Việt Nam, chỉ phố huyện của ông thôi mà xe cộ ngược
xuôi, xe nọ qua mặt xe kia, bất chấp ai trước ai sau và còi xe thì luôn kêu inh
ỏi để người ta biết mà tránh né nhau, chứ đèn đường hay dấu hiệu luật lệ giao
thông chẳng hiệu quả gì, hình như chỉ để phô trương và triển lãm, đến nỗi người
ta có cảm tưởng rằng nếu xe không có còi thì đừng hòng ra đường.
Ông Sĩ phải thốt lên:
– Sao mà nhiều cầu vượt đến thế, sao mà nhiều xe cộ đến
thế? chỉ riêng nước Mỹ này đã ngốn hết bao nhiêu xăng dầu của thế giới rồi còn
gì !
Qua khỏi cầu highway 405, xe chở ông Sĩ đang đi vào một
thành phố, rồi đến những khu đường vắng vẻ dần, khi xe dừng lại trước một bảng
hiệu stop màu đỏ khá lâu thì ông Sĩ ngạc nhiên hỏi ông Tượng:
– Sao ngừng
lâu thế?
– Bảng
“Stop” là phải ngừng hẳn xe anh ạ.
– Ối giời,
bảng gì thì bảng, nhưng chỗ này vắng vẻ không có ai thì ta cứ linh động mà đi
chứ ngừng làm gì cho phí thì giờ?
– Luật lệ ở
Mỹ ai cũng phải tôn trọng, dù là lúc nửa đêm không một bóng người cũng vậy.
Ông Sĩ gật gù khen:
– Ở Mỹ thật là tự
giác, chả bù cho ở Việt Nam ta cứ làm liều cho đến khi bị phát giác.…
Những khu nhà cư dân hiện ra, ông Sĩ thất vọng khi nghĩ
nhà em trai mình ở một nơi vắng vẻ như thế này chắc không khá giả gì. Ông Tượng
như đọc được ý tưởng trong đầu ông anh, bèn giải thích:
– Nhà em ở
trong khu này, một trong những khu vực nhà cửa có gía của California .
Ông Sĩ hỏi lại:
– Ở nơi hiu
quạnh thế này mà lại đắt đỏ thế kia à?
– Vâng, ăn
thua địa thế, nhà trên đồi, trên núi còn đắt hơn nhà dưới mặt đất. Chỉ những ai
tiền triệu trở lên mới mua nổi nhà trên ấy thôi.
– Lạ nhỉ, ở
Mỹ cái gì cũng ngược đời, ở quê mình, đồi núi bỏ không, làng xã phải khuyến
khích người dân lên phát quang làm rẫy trồng khoai sắn tăng gia vì lúa gạo
không đủ ăn, chứ làm gì có chuyện dọn lên đồi, lên núi mà ở cho hoang lạnh lẻ
loi.
Ông Tượng kể thêm:
– Nhà ở
càng gần biển càng đắt, nhất là những căn nhà sát ngay bờ biển.
– Ối giời, ở
Việt Nam chỉ những nhà nghèo mới ở sát biển, đối diện với sóng gío làm hao mòn
nhà cửa, biển lấn đất liền có ngày nuốt chửng cả nhà và người chứ qúy hóa gì.
Ông Tượng hỏi thăm sang chuyện nhà :
– Nghe nói
thằng út nhà anh làm việc ở công ty gì trên huyện, có khá không ?
– Chỉ “túc
tắc” thôi. Được mỗi ưu điểm là khỏi chân lấm tay bùn như làm ruộng.
Ông Tượng ngạc nhiên:
– Anh nói
“túc tắc” là gì? Em không hiểu…
– Là công
việc lằng nhằng tạm đủ sống qua ngày. Trước anh có cho nó học tiếng Trung mà
không xin được việc làm ở thành phố đành về làm công nhân phố huyện vậy.
Ông Tượng lại hỏi và chép miệng than thở:
– Tiếng
Trung là gì? Việt Nam bây giờ nói nhiều từ lạ qúa em không hiểu nổi…
Ông Sĩ giải thích:
– Cuộc sống
tất bật qúa nên người ta phải nói tắt và hình tượng cho nhanh hiểu chú ạ. Tiếng
Trung là Trung quốc, còn Singapore thì gọi là “Sing” cho ngắn gọn, chú hơi đâu
mà lăn tăn. À, hai từ “Lăn tăn” là hình tượng đấy, nghĩa là chú cứ để tâm hồn
thanh thản như dòng nước bình lặng, đừng suy nghĩ, thắc mắc như khi dòng nước gợn
sóng lăn tăn. Hiểu chưa?
Ông Tượng trả lời mà nét mặt vẫn còn hoang mang:
– Vâng, em
sẽ cố gắng hiểu.
Về đến nhà, sau vài phút chào mừng thăm hỏi nhau rối rít,
ông Sĩ lại lục đục với mớ hành lý, lôi
ra giấy tờ và nghiêm chỉnh nói với em:
– Chú đưa
anh ra công an khu vực khai tạm trú cho
xong việc đã….
Ông Tượng bật cười không khác gì chị Việt Nam lúc nãy ở
phi trường Los Angeles:
– Ở Mỹ
không ai xét hỏi giấy tờ anh đâu.
Ông Sĩ không tin:
– Chú nói
thế nào? Nếu công an khu vực không xét
giấy tờ, thì chú cứ dẫn anh ra chào họ một tiếng cho phải lẽ, sau này họ không
kiếm cớ bắt bẻ, làm tiền mình chú ạ…với lại chị có dự trù sẵn một ký chè Thái
Nguyên để biếu họ đây.
Ông Tượng ngưng cười, cũng nghiêm chỉnh để giải thích:
– Nước Mỹ
không có anh công an khu vực, không ai phải khai tạm trú tạm vắng. Họ đã xét giấy
nhập cảnh của anh ở cửa khẩu phi trường,
thế là xong.
– Thế anh
đi ngoài đường họ có xét hỏi giấy tờ không?
– Không tin
ngay bây giờ anh cứ ra đường đi khơi khơi xem có ai biết anh mới vừa đến Mỹ
không? Ngay cả người hàng xóm bên cạnh cũng không hề biết nữa là…
Ông Sĩ vẫn ngơ ngác:
– Thật thế ư? Chẳng lẽ người Mỹ lại sơ hở thế? quản lý đất
nước và con người lỏng lẻo đến thế?
Ông Sĩ ngồi thừ
người vì chưa hết sửng sốt, cả đời ông quen thuộc với nếp sống xã hội chủ
nghĩa, đã ngấm vào thịt da xương tủy ông những thủ tục, luật lệ, nên ông tưởng
nó theo ông dù ông đi đâu, đến đâu.
Hôm nay, ông là một
cựu chiến binh cộng sản, cựu kẻ thù của Mỹ, kẻ đã một thời từng mong tiêu diệt
những lính Mỹ trên quê hương Việt Nam, theo đúng câu tuyên truyền “Đánh cho Mỹ
cút Ngụy nhào” đang chễm chệ ngồi ngay trong lòng nước Mỹ, vậy mà không hề bị họ
để ý, nghi ngờ hay làm khó khăn gì cả, qủa là chuyện lạ lùng.
Buổi chiều, ông Sĩ ăn cơm cùng gia đình ông Tượng, có cả
các con ông Tượng ở gần đấy sang chơi, trò chuyện đủ thứ. Gia đình ông Tượng
bàn nhau kế hoạch sẽ đưa ông Sĩ đi chơi những nơi trong thành phố, rồi đi thăm
thân nhân khác, tại những thành phố hay tiểu bang khác. Thật là nồng nhiệt,
thân tình và vui vẻ.
Tối hôm đầu tiên nằm ngủ ở Mỹ, trong nhà của em trai
mình, trong một căn phòng riêng sạch sẽ đầy đủ tiện nghi, giường nệm, chăn gối
thơm tho, phòng tắm, cầu tiêu ngay bên cạnh, ông Sĩ tưởng như mình lạc vào cõi
mộng nào.
Bao nhiêu năm đời
bộ đội nằm bờ bụi, đói khổ, hết chiến tranh thì về quê, cảnh nhà nghèo nàn túng
thiếu, ông nào biết có những cảnh đời tiện nghi sung sướng như thế này, ông Sĩ
ao ước giá mà bà vợ cùng đi với ông để cùng được hưởng, vì mai kia ông có kể lại
chắc gì bà ấy hình dung ra được
Ông thao thức mãi chưa ngủ được, phần vì thay đổi giờ giấc,
phần vì lạ nhà, lạ cảnh. Ông lan man nhớ lại lúc ở phi trường Los. Anh hải quan
đã tin cậy lời ông một cách dễ dàng, một người xa lạ, mới gặp lần đầu mà không
xét hỏi thêm gì về hành lý của ông cả.
Ông chạnh lòng nhớ đến chuyện xa hơn, sau ngày đất nước
hoà bình, ông Sĩ làm đơn xin hưởng lương hưu cựu chiến bình. Từ làng xã, đến
các đơn vị đều biết ông bao năm đi bộ đội, vậy mà người ta hành hạ ông phải chạy từ quê lên huyện,
lên thành phố, trở về đơn vị cũ, gặp thủ trưởng xưa, xin bao nhiêu chữ ký, bao
nhiêu thứ xác nhận chòng chéo, vòng vo đến dư thừa thì họ mới cho hoàn tất hồ
sơ.
Bao nhiêu công lao và xương máu của ông đã đổ ra trong
chiến tranh, mà chút quyền lợi đền bù cho ông sao nhiêu khê, khó khăn đến thế !
Lòng ông lại chập
chờn những nỗi vui buồn, vui vì anh em ông có ngày đoàn tụ nhìn thấy nhau, ông
sẽ có mấy tháng rong chơi ở nước Mỹ to đẹp này, buồn vì ông thấy hai cảnh đời
khác biệt.
Gia đình ông Tượng sang Mỹ, 3 đứa con đều ăn học thành
tài cả, đứa nào cũng có bằng cấp đại học trở lên, có nhà cửa riêng, còn gia
đình ông Sĩ cũng 3 đứa con thì 2 đứa lớn theo nghiệp cha ông làm ruộng, cuộc sống
nghèo nàn lam lũ chẳng biết đời nào mới ngóc đầu lên nổi, thằng út đậu xong cái
bằng phổ thông trung học, ông đã tìm cách cho nó thoát ly cảnh đồng ruộng, để
cuộc đời đỡ vất vả, xin làm công nhân ở một hãng sản xuất đồ gốm trên huyện mà
cũng tốn bao nhiêu công phu nhờ cậy giới thiệu và đút lót qùa cáp mới được nhận
vào.
Ông ngậm ngùi thầm trách bố ông sao ngày xưa không đem cả
vợ con đi, mà kẻ trước người sau cho mộng đời dang dở, thì ngày nay cha con ông
chắc cũng chẳng thua kém gì cha con ông Tượng.
Bố ông yêu thích
môn cờ tướng, chơi cờ tướng giỏi, vậy mà ván cờ cuộc đời ông chỉ tính sai một
nước cờ mà thiệt thòi cả mấy đời người.
Hết nghĩ chuyện nọ đến chuyện kia, ông Sĩ bỗng lo xa khi
nghĩ đến 3 tháng du lịch ở Mỹ rồi sẽ trôi qua, ông sẽ trở lại Việt Nam, đối diện
với cảnh sống nghèo nàn thường lệ, và
trước mắt là đối diện với cuộc hành trình trở về từ Mỹ.
Xưa nay ông đã quen bị đối xử bất công trong mọi tình huống
của cuộc sống rồi, có bị quát, bị mắng cũng chai đá rồi.
Nhưng từ phi trường ở Nhật Bản đến phi trường ở Mỹ ông đã
được đối xử một cách công bằng, lịch sự, hoàn toàn khác biệt ở phi trường Nội
Bài, ông chợt thấy một thế giới khác tử tế hơn nơi ông sinh ra và lớn lên cho đến
bây giờ.
Trời ơi, lượt về ông sẽ gặp lại những bộ mặt từ chuyến
bay hãng hàng không Việt Nam ấy, đến phi trường Nội Bài gặp mấy đứa hải quan ấy,
mà ông thêm ngao ngán…
Ông chỉ muốn chúng nó biến mất trong đầu óc ông để ông ngủ
yên tối nay và thoải mái tận hưởng những ngày du lịch một đất nước lạ đời và
thăm lại các người thân sau bao nhiêu năm dài xa cách.
Nguyễn Thị Thanh Dương.
****
Quê Hương nỗi nhớ
Chiều nay chợt nhớ quê xưa
Nhớ con sông nhỏ, chiều mưa bến đò
Nhớ con thuyền, nhớ câu hò
Nhớ dòng nước chảy lượn lờ mênh mang
Nhớ cây đa, lũy tre làng
Hàng dừa rợp bóng bên đàng vào thôn
Cánh diều bay bổng chiều hôm
Con đê rộn bước người thôn đi về
Gập ghềnh xóm vắng đường quê
Nhớ trưa hè với tiếng ve rộn ràng
Nhớ lời mẹ ru mênh mang
Câu ca dao hát thơm vàng tuổi thơ
Kẽo kẹt theo tiếng võng đưa
Ẩu ơ…tiếng hát ngày xưa nhịp nhàng
Nhớ vườn hoa cải trổ vàng
Có con bướm lượn trên hàng lá xanh
Nhớ khói lam quyện mái tranh
Nhớ bông cúc dại mong manh bên tường
Nhớ ao rau muống sau vườn
Đàn gà xao xác bên chuồng gọi nhau
Nhớ mùi hương của hoa cau
Thoảng trong làn gió hương ngâu, hương lài
Nhớ dàn thiên lý nhà ai
Có người hong tóc, tóc dài thướt tha
Tình quê tràn ngập lòng ta
Tràn trong trí nhớ, tràn qua tuổi đời
Quê hương nơi đó xa vời
Hồn quê ấp ủ muôn đời trong tim.
Tường Thuý
****
SỨC KHỎE VÀ CHUYỆN THỨC ĂN THUẦN THỰC VẬT
Phương Hoa
Ngày xưa, chuyện ăn toàn rau trái chỉ được biết nhiều từ
luật lệ ăn chay ở các nước Á Châu, điển hình là Việt Nam. Tại Việt Nam, những vị
tu hành Phật Giáo và những tôn giáo có nguồn gốc từ Phật Giáo, như Cao Đài, Hòa
Hảo, v.v… tín đồ bắt buộc phải ăn chay, ít nhất mỗi tháng ăn hai ngày chay, sáu
ngày, rồi đến mười ngày, hoặc là một năm ăn chay ba tháng, cho đến trường trai,
nghĩa là không bao giờ ăn mặn. Nhưng ngày nay, việc lựa chọn thức ăn không có
thịt lại là một phong trào đang lớn mạnh tại các nước phương Tây, đặc biệt nhất
là dân Mỹ. Nhưng nguyên do thì không phải hoàn toàn vì lý do tôn giáo mà người
ta chọn ăn toàn thực vật.
Theo trang web “Harvard Health Publishing” của trường đại
học Harvard Medical School, người ta trở thành “vegetarians” vì rất nhiều lý
do. Ngoài niềm tin tôn giáo, bảo vệ động vật, tránh sử dụng quá mức tài nguyên
trong chăn nuôi để bảo vệ môi trường, thì còn có lý do quan trọng hơn là vì sức
khỏe, như lo ngại về việc sử dụng kháng sinh và hormone trong chăn nuôi. Và
cũng có một số người theo chế độ ăn rau trái vì họ không đủ khả năng ăn thịt.
Việc trở thành người ăn thực vật ngày càng trở nên hấp dẫn,
vì rau trái dễ thu thập, dễ chế biến hơn, nhờ vào sự sẵn có quanh năm của các sản
phẩm rau trái tươi do trồng trọt. Đã có rất nhiều nghiên cứu cho thấy những lợi
ích về ẩm thực chủ yếu dựa trên thực vật ngày càng tăng đối với các nền văn hóa
khắp nơi trên thế giới.
Theo truyền thống trước giờ, các nghiên cứu về ăn chay chủ
yếu tập trung vào sự thiếu hụt dinh dưỡng. Nhưng trong những năm gần đây, các
nghiên cứu đang xác nhận lợi ích sức khỏe của việc thức ăn không có thịt. Ngày
nay, ăn uống dựa trên thực vật được công nhận là không chỉ đủ dinh dưỡng mà còn
là một cách để giảm nguy cơ mắc nhiều bệnh mãn tính. Theo Hiệp Hội Dinh Dưỡng
Hoa Kỳ, thì “chế độ ăn chay nếu được lập kế hoạch phù hợp, bao gồm cả chế độ ăn
chay hoàn toàn, là lành mạnh, đầy đủ chất dinh dưỡng và có thể mang lại lợi ích
sức khỏe trong việc phòng ngừa và điều trị một số bệnh.”
Có điều, theo những chuyên gia dinh dưỡng, khi chuyển đổi
sang ăn rau trái, bạn phải làm theo các hướng dẫn về dinh dưỡng, như việc tiêu
thụ chất béo và kiểm soát cân nặng, bằng không, dù gọi là “ăn toàn chay” cũng sẽ
không tốt cho bạn. Điều quan trọng nhất, là phải bảo đảm rằng bạn ăn nhiều loại
trái cây, rau, và ngũ cốc nguyên hạt, thay thế chất béo bão hòa từ thịt bằng chất
béo tốt, như những chất có trong các loại hạt, dầu ô liu, và dầu hạt cải. Bạn
không được ăn nhiều thức ăn chế biến sẵn như, pizza, pho mát, và kẹo là những
món cũng có thể gọi là “chay” vì không có thịt. Thêm vào đó, bạn phải chú ý khẩu
phần ăn, hãy luôn nhớ rằng nếu bạn ăn quá nhiều calo, ngay cả từ thực phẩm giàu
dinh dưỡng, ít chất béo, có nguồn gốc thực vật, bạn cũng sẽ tăng cân.
Có một câu hỏi được đặt ra: Ăn chay có bảo vệ bạn khỏi những
căn bệnh nguy hiểm không?
Câu trả lời là có thể. Cũng theo “Harvard Health
Publishing,” so với những người ăn thịt, những người ăn thực vật tiêu thụ ít chất
béo bão hòa và cholesterol hơn, và họ thu nạp nhiều vitamin C và E, chất xơ,
axit folic, kali, magiê và các chất phytochemical (hóa chất thực vật), chẳng hạn
như carotenoid và flavonoid. Điều này
giúp họ có lượng cholesterol LDL (xấu) thấp hơn, huyết áp thấp hơn, và chỉ số
khối cơ thể (BMI) thấp hơn, tất cả những điều trên đều liên quan đến tuổi thọ
và giúp giảm nguy cơ mắc nhiều bệnh mãn tính.
Giúp cho bệnh tim. Nhiều bằng chứng cho thấy những người
ăn rau trái có ít nguy cơ mắc các chứng bệnh về tim, và tử vong do các nguyên
nhân về tim. Một trong những nghiên cứu lớn nhất – một phân tích tổng hợp dữ liệu
từ 5 nghiên cứu liên quan đến hơn 76.000 người tham gia công bố vài năm trước –
những người ăn chay, trung bình, ít có nguy cơ chết vì bệnh tim hơn 25%.
Điều này có vẻ đúng với trường hợp của cựu Tổng Thống Hoa
Kỳ Bill Clinton. Ông từng bị bệnh tim năm 2004 và đã được giải phẫu để nối các
động mạch bị hư hại trong tim. Nhưng phải đến năm 2010 – sau một lần bị đau ngực
dẫn đến phải đặt hai stent mạch vành – vị cựu Tổng Thống mới quyết định chuyển
sang lối sống “thuần chay.” Trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí AARP, Clinton
tuyên bố sự thay đổi chế độ ăn uống này đã giúp ông giảm 30 pound, cải thiện mức
năng lượng tổng thể và cuối cùng là kéo dài tuổi thọ. Ông đã sống khỏe và rất hạnh
phúc hơn một thập niên qua để vui chơi cùng ba đứa cháu ngoại, con của Chelsea
Clinton.
Trên thực tế, bệnh tiểu đường và bệnh tim có liên quan chặt
chẽ với nhau. Người mắc bệnh tiểu đường có thể tăng gấp đôi nguy cơ đau tim hoặc
đột quỵ, vì vậy các bước thực hiện để bảo vệ cho tim mạch của bạn đồng thời
cũng có lợi cho việc kiểm soát lượng đường trong máu. Để bảo vệ tim, tốt nhất bạn
nên chọn ăn ngũ cốc nguyên hạt và các loại đậu giàu chất xơ, được tiêu hóa chậm
và có chỉ số đường huyết thấp – tức là chúng giúp giữ lượng đường trong máu ổn
định. Chất xơ hòa tan cũng giúp giảm mức cholesterol. Carbohydrate tinh chế và
tinh bột như khoai tây, gạo trắng và các sản phẩm làm từ bột mì trắng làm tăng
nhanh lượng đường trong máu, làm tăng nguy cơ đau tim và tiểu đường (một yếu tố
nguy cơ của bệnh tim).
Về ung thư. Hàng trăm nghiên cứu cho thấy rằng ăn nhiều
trái cây và rau quả có thể làm giảm nguy cơ phát triển một số bệnh ung thư và
có bằng chứng cho thấy những người ăn chay có tỷ lệ mắc bệnh ung thư thấp hơn
những người không ăn chay.
Bệnh tiểu đường loại 2. Nghiên cứu cho thấy rằng chế độ
ăn chủ yếu dựa trên thực vật có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại
2. Trong các nghiên cứu của những người theo thuyết Cơ đốc Phục Lâm, (một giáo
phái Cơ Đốc giáo chủ xướng không ăn thịt, nhà thờ chú trọng về chế độ ăn uống
và sức khỏe, bao gồm việc tuân thủ luật thực phẩm Kashrut, ủng hộ việc ăn
chay), nguy cơ mắc bệnh tiểu đường của người ăn chay bằng một nửa so với người
ăn thịt
Bạn cũng có thể nhận được nhiều lợi ích sức khỏe của việc
ăn thực vật mà không cần thực hiện tất cả. Ví dụ, mô hình ăn uống Địa Trung Hải
– được biết là có liên quan đến tuổi thọ cao hơn và giảm nguy cơ mắc một số bệnh
mãn tính – họ nhấn mạnh vào thực phẩm thực vật và ít sử dụng thịt. Ngay cả khi
bạn không muốn trở thành một người ăn chay hoàn toàn, bạn có thể hướng chế độ
ăn uống của mình theo hướng đó bằng một vài thay thế đơn giản, chẳng hạn như
các nguồn protein từ thực vật – chẳng hạn như đậu hoặc đậu phụ – hoặc cá thay
vì thịt vài lần một tuần.
Những thức ăn thực vật chứa chất đạm tốt rất nhiều. Quả hạch có tác dụng bảo vệ tốt cho tim mạch.
Chúng có chỉ số đường huyết thấp và chứa nhiều chất chống oxy hóa, protein thực
vật, chất xơ, khoáng chất và axit béo lành mạnh. Đặc biệt, quả óc chó (walnuts)
là một nguồn giàu axit béo omega-3, có nhiều lợi ích cho sức khỏe.
Các loại người ăn chay
Nói một cách chính xác, người ăn chay là những người
không ăn thịt, gia cầm hoặc hải sản. Nhưng người ta có nhiều kiểu ăn kiêng khác
nhau tự gọi mình là người ăn chay. Người thuần chay không ăn thịt, gia cầm, cá,
hoặc bất kỳ sản phẩm nào có nguồn gốc từ động vật, bao gồm trứng, các sản phẩm
từ sữa, và gelatin. Những người ăn chay gọi là “Lacto-ovo” không ăn thịt, gia cầm
hoặc cá, nhưng ăn trứng và các sản phẩm từ sữa. Còn người ăn chay gọi là
“Lacto” thì không ăn thịt, gia cầm, cá hoặc trứng, nhưng có tiêu thụ các sản phẩm
từ sữa. Một nhóm người ăn chay khác “Ovo” thì không ăn thịt, gia cầm, cá, hoặc
các sản phẩm từ sữa, nhưng lại ăn trứng.
Một số loại rau có thể cung cấp canxi, như cải ngọt, bông
cải xanh, cải thảo, cải thìa và cải xoăn. (Rau bina và cải Thụy Sĩ, cũng chứa
canxi, không phải là lựa chọn tốt như vậy, vì cùng với canxi, chúng còn có
oxalat, khiến cơ thể khó hấp thụ canxi.) Hơn nữa, hàm lượng kali và magiê cao
trong trái cây và rau quả. làm giảm axit trong máu, giảm bài tiết canxi qua nước
tiểu.
Những người theo chế độ ăn chay, đặc biệt là chế độ ăn
thuần chay, có thể có nguy cơ nhận không đủ vitamin D và vitamin K, cả hai đều
cần thiết cho sức khỏe của xương. Mặc dù các loại rau lá xanh có chứa một số
vitamin K, nhưng những người ăn chay trường cũng có thể cần phải dựa vào các loại
thực phẩm bổ sung, bao gồm một số loại sữa đậu nành, sữa gạo, nước cam hữu cơ
và ngũ cốc ăn sáng. Họ cũng có thể muốn xem xét việc bổ sung vitamin D.
Mối quan tâm về chế độ ăn chay tập trung chủ yếu vào các
chất dinh dưỡng sau:
Chất đạm. Nghiên cứu cho thấy những người ăn chay
“Lacto-ovo” thường nhận được lượng protein khuyến nghị hàng ngày, dễ dàng thu
được từ các sản phẩm sữa và trứng. (Phụ nữ cần khoảng 0,4 gam protein cho mỗi
pound trọng lượng cơ thể mỗi ngày. Vì protein trong rau có phần khác với
protein động vật, người ăn chay trường có thể cần 0,45 gam protein cho mỗi
pound trọng lượng cơ thể mỗi ngày.) Có nhiều nguồn thực vật có thể giúp những
người ăn chay đáp ứng nhu cầu protein của họ, bao gồm đậu Hà Lan, đậu, đậu
lăng, đậu gà, hạt giống, các loại hạt, các sản phẩm đậu nành và ngũ cốc nguyên
hạt (ví dụ: lúa mì, yến mạch, lúa mạch và gạo lứt). Những người ăn chay từng được
khuyên phải kết hợp protein thực vật “bổ sung” (ví dụ như gạo với đậu) trong mỗi
bữa ăn để có được tất cả các axit amin có trong protein thịt.
Vitamin B12. Vitamin B12 chỉ được tìm thấy trong các sản
phẩm động vật, nhưng những sản phẩm đó bao gồm thực phẩm từ sữa và trứng, vì vậy
hầu hết những người ăn loại này đều nhận được tất cả những gì họ cần. Nếu bạn
tránh hoàn toàn các sản phẩm từ động vật, thì nên ăn thực phẩm tăng cường
vitamin B12 (một số đồ uống từ đậu nành và gạo và ngũ cốc ăn sáng) hoặc bổ sung
vitamin B12 để tránh thiếu hụt, có thể gây ra các vấn đề thần kinh và thiếu máu
ác tính.
Những món ngon không có thịt nhưng không kém phần bổ dưỡng:
image.png
Xúp nấm đậu phụ
image.png
Rau mầm
image.png
Chả giò với pho mát, nấm đông cô, đâu phụ chiên, phù chúc,
và…
Người Mỹ hầu hết theo đạo Tin Lành và Công Giáo, những
tôn giáo không bắt buột tín đồ phải ăn chay. Tuy nhiên gần đây, tỷ phú Bill
Gates người sáng lập Microsoft đã khuyến khích mọi người nên ăn thuần thực vật. Bill Gates cho biết, ăn chay “Sẽ tốt cho sức
khỏe hơn khi ít cholesterol hơn.” Ông còn cho biết, sự không ăn thịt giúp giảm
đáng kể lượng khí thải mê-tan, sự tàn ác với động vật, việc quản lý phân, và giảm
bớt áp lực sử dụng đất. “Ăn thực phẩm có
nguồn gốc từ thực vật có thể giúp chống lại biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường,”
ông tuyên bố trên trang Livekindly, vì “chỉ riêng nuôi bò đã chiếm khoảng 6% lượng
khí thải toàn cầu.”
Hiện tại tỷ phú Gates là nhà đầu tư vào các thương hiệu
thịt làm từ thực vật “Beyond Meat” và “Impossible Foods,” hầu hoàn thiện các loại
thức ăn thực vật thay thế thịt động vật. Tuy Billy Gates thường xuyên bị chỉ
trích về ý tưởng của ông sẽ làm cho nền nông nghiệp chăn nuôi suy yếu, nhưng
ông vẫn cho rằng loài người cần ăn nhiều thịt thuần chay hơn nữa để cứu hành
tinh, ông nói, “Việc nuôi động vật có thể gây ra thiệt hại lớn về môi trường,
vì bạn phải cho con vật ăn nhiều calo hơn so với lượng calo mà bạn lấy vào khi
bạn ăn nó.” Theo Livekndly.
image.png
Điều thú vị đã thúc đẩy Bill Gates đầu tư vào Beyond Meat
và “Impossible Foods” là khi thưởng thức những thành phẩm thịt bằng thực vật
ông không thể phân biệt được sự khác biệt giữa thịt gà làm từ thực vật và động
vật. “Giống như hầu hết mọi người, tôi không nghĩ rằng mình có thể dễ dàng bị lừa.
Nhưng đó chỉ là những gì đã xảy ra khi tôi được yêu cầu nếm thử một miếng taco
gà và cho biết phần thịt bên trong là thật hay giả.” Bill Gates đã viết như thế
trên một Blog.
Và thế là đến tháng 2 năm 2019, Công ty công nghệ thực phẩm
Motif đã công bố ra mắt sau khi huy động được 90 triệu đô la trong quỹ Series A
do Breakthrough Energy Ventures dẫn đầu – một quỹ bao gồm các tỷ phú như người
sáng lập Amazon Jeff Bezos, người sáng lập Microsoft Bill Gates và người sáng lập
Virgin Richard Branson để tạo ra món bánh mì kẹp thịt chay thuần chay. Thật là thú vị, cũng theo thông tin này, công
ty công nghệ thực phẩm mới do tỷ phú ủng hộ Motif – do cựu giám đốc điều hành
Pepsi Jonathan McIntyre lãnh đạo – sẽ hỗ trợ sự phổ biến hàng loạt của trứng,
thịt và sữa có nguồn gốc thực vật… Motif nhằm mục đích giúp các nhà sản xuất thực
phẩm có nguồn gốc từ thực vật tiếp cận nhân khẩu học lớn hơn, thông qua nền tảng
công nghệ sinh học của mình. Công ty tập trung vào việc áp dụng quá trình lên
men đối với protein thường có nguồn gốc từ các sản phẩm động vật để tạo ra các
thành phần có nguồn gốc thực vật thế hệ tiếp theo, bắt chước trứng, thịt và pho
mát — tương tự như hemoglobin đậu nành mà Impossible Foods đã sử dụng để tạo ra
chất lượng giống như thịt bò của “Impossible Burger.”
Sau cùng, xin chia sẻ một chút xíu “người thật việc thật”
cùng quý bạn đọc về chuyện ăn toàn thực vật, hay là ăn thuần chay. Hai mươi mấy
năm trước, khi người viết đi khám sức khỏe tổng quát và làm xét nghiệm máu, bác
sĩ cho biết mức cholesterol thì “quá cao” mức bạch cầu thì “quá thấp” mức
calcium thì “quá ít,” lượng đường trong máu thì “mem mém” bờ đê, và mức hồng cầu
thì cũng “quá thiếu” luôn. Bác sĩ khuyên phải uống thuốc, nhưng người viết nhất
định không uống vì sợ uống thuốc cả đời thì không tránh khỏi những phản ứng phụ. Từ đó người viết chăm chỉ ăn kiêng, đủ kiểu
ăn kiêng, thứ gì “beo béo” đều không dám ăn, một chút pho mát cũng không dám thử.
Hàng năm sau khi thử máu lại đều “vũ như cẩn,” và mỗi lần như vậy lại tự an ửi
mình, lần tới sẽ khá hơn, rồi bắt đầu thay đổi bớt ăn món này, ăn thêm món kia…
vậy mà mấy chục năm, chưa bao giờ các con số “xuống lên” vào mức ổn định.
Cho tới cách đây ba năm, bà chị chồng từ Việt Nam du lịch
qua thăm. Chị ấy tuổi đã hơn tám mươi mà da dẻ hồng hào, thần sắc nhuận tươi,
nói năng rổn rảng, đi đứng nhanh nhẹn, nhìn tràn đầy sinh lực, khác với khi còn
trẻ chị bệnh hoạn triền miên, “đuổi ruồi không bay” nhiều người nói chị như thế.
Chị đã ăn thuần chay ba mươi lăm năm rồi. Thế là người viết và cả “nửa kia” liền
bắt chước ăn theo bà chị. Trong suốt một tháng chị ở chơi, hai chị em bắt đầu nấu
các món chay ngon và cũng không kém phần bổ dưỡng từ rau củ quả, và còn ăn thêm
các loại hạt, cũng như ươm rau mầm ăn thay cho rau sống. Khách về rồi, nhưng
người ở lại vẫn tiếp tục ăn thuần chay vì thấy khá ngon và hợp khẩu vị nếu chịu
khó chế biến nhiều món thực vật để thay thế thịt.
Đúng một năm sau đi thử máu lại, vị bác sĩ gia đình đã phải…giật
mình kêu lên khi ông nhìn bảng thử máu hoàn hảo không một chút “tì vết” của người
viết. Những con số nào đáng lên thì đã
lên và những con số nào cần xuống thì đã xuống đúng mức yêu cầu. Ba năm rồi,
người viết vẫn tiếp tục ăn thuần thực vật, và những con số trong bảng thử máu vẫn….đẹp
như thường.
Cho nên, nếu bạn có vấn đề sức khỏe, hoặc đang lo lắng và
muốn bảo vệ sức khỏe của bạn, hãy suy nghĩ một chút về việc có nên thay đổi thức
ăn của bạn từ thịt động vật qua thực vật không nha.
Phương Hoa
Tài liệu tham khảo:
https://www.health.harvard.edu/staying-healthy/becoming-a-vegetarian
https://www.ontrackdiabetes.com/related-conditions/why-former-presidents-heart-healthy-diet-good-diabetes-too
https://www.livekindly.co/bill-gates-says-eat-vegan/#:~:text=In%20addition%20to%20being%20an,based%20and%20animal%2Dbased%20chicken.
https://vegnews.com/2019/2/jeff-bezos-bill-gates-and-richard-branson-lead-90-million-investment-to-create-next-vegan-impossible-burger
https://www.health.harvard.edu/staying-healthy/becoming-a-vegetarian
Mùa Hè Năm Cũ
Hè về ve kêu vang
Giọt nắng óng ánh vàng
Trời xanh trong mắt biếc
Chào mây trắng lang thang!
Hè về xuyến xao nhiều
Cây lặng, gió hiu hiu
Trường lớp đà vắng lặng
Nhớ ai những buổi chiều
Nhặt đóa phượng dưới chân
Nâng niu nhớ những lần
Phượng chiếu hồng đôi má
Môi mím chặt, ngại ngần
Gió thổi lá muôn nơi
Mưa đưa hồn chơi vơi
Đời đẩy người muôn ngả
Đánh rơi thuở tuyệt vời
Hè ơi đã về chưa?
Để buổi học chiều mưa
Có dáng đi huyền ảo
Đẹp như cổ tích
xưa
Thúy Messegee
***
MÙA THU VÀ NHỮNG CHIẾC KHĂN QUÀNG CỦA MẸ
Tùy bút của Hồng Thủy
Sáng nay ra trước nhà lấy báo, cái không khí mát lạnh của
buổi bình minh làm tôi chợt nhớ ra mùa thu đã đến.
Tôi yêu mùa thu từ những ngày thơ ấu ở Thanh Hóa.Lý do rất
giản dị là khi mùa thu đến, mỗi sáng Chủ Nhật đi nhà thờ, tôi được mẹ quàng cho
những chiếc khăn dủ mầu thật đẹp.
Mẹ có một hộp khăn quàng để trên nóc tủ áo.
Những chiếc khăn quàng mỏng nhẹ như tơ. Mẹ bảo đó là quà
của bố mua cho mẹ mỗi chuyến đi Hà Nội. Mẹ rất thích quàng khăn, mỗi chiếc áo
dài, mẹ chọn màu khăn hòa hợp với màu áo, rất lịch sự trang nhã. Mẹ hay mặc
áo dài màu lá úa. Mẹ nói đó là màu bố
thích nhất.. Cho dù bố không còn nữa mẹ cũng vẫn làm theo ý thích của bố.
Tôi không được biết cảm giác của một đứa trẻ có đủ bố mẹ
ra sao, vì tôi mất bố năm tôi mới có 18 tháng !
Tôi lớn lên trong sự nuông chiều và thương yêu tràn ngập
của mẹ, nên không hề thắc mắc nếu có bố
thì mình được thêm những gì..
Chiến tranh bùng nổ, gia đình tôi phải bỏ thành phố tản
cư về nhà quê. Chúng tôi sống trong một trang trại nhỏ của ông bà ngoại ở làng
Sơn Lương, một làng có địa thế khá thơ mộng, gần những đồi sim tím và những dẫy
núi xanh lam. Tôi bắt đầu làm quen với những thảm lá vàng khi mùa thu đến. Thú
vui của hai anh em tôi là gom những chiếc lá vàng vào đầy hai bàn tay rồi
tung lên cao để cho lá bay theo gió..
Mùa thu luôn đi kèm với những chậu cúc vàng rực rỡ. Vì
yêu mùa thu nên tôi yêu tất cả những cánh hoa vàng.
Những ngày ở nhà quê, mẹ tôi không có dịp mặc áo dài và
hai mẹ con cũng chẳng còn cơ hội quàng khăn đi lễ ngày Chủ Nhật.
Những chiếc khăn quàng mỏng manh điệu đà được mẹ tôi trân
quý, cất tận đáy rương với những viên long não thơm nức mũi.
Trang trại của ông bà ngoại tôi gần trạm dừng của những
chuyến xe lửa tốc hành và rất tiện đường đón khách công tác ngang qua. Tôi còn
nhớ có một lần cậu Loan em họ của mẹ ghé chơi.Tên cậu như tên con gái nhưng
dáng dấp cậu cao lớn, đẹp trai. Cậu lại cỡi ngựa nên trông oai vô cùng. Trên đường
đi công tác cậu ghé thăm gia đình tôi mấy bữa.
Một buổi tối, mọi người ngồi chơi ngoài hàng hiên, ăn
bánh uống trà, cậu hỏi mẹ tôi có biết tên bài hát cậu rất thích mà chỉ thuộc
vài câu. Hỏi rồi cậu cất tiếng hát,giọng thật ấm
Lá vàng bay
theo gió
Hoa tàn rụng
bên song.
Ôi một chiều
thu buồn
Ôi một chiều
nhớ mong……
Mẹ nói ngay đó là bài Trào Lòng và khe khẽ hát tiếp theo.
Con bé lỏi tì của mẹ ngồi ngây người ra nghe và mê ngay bài hát đó. Mẹ ngạc
nhiên khi tôi đòi mẹ dậy cho tôi hát bài Trào lòng. Tôi nhớ mẹ âu yếm vuốt tóc
tôi, mắt mẹ buồn xa vắng, mẹ thở dài nói “Sao con còn nhỏ mà đã thích những bài
hát buồn, khổ thôi con ạ”
Tôi không hiểu sao mẹ lại nói vậy.Cho tới bây giờ , tôi
cũng không biết tại sao, từ nhỏ tới lớn cho đến khi đã bước vào tuổi già tôi vẫn
thích những bài hát, bài thơ hay tiểu thuyết viết về những cuộc tình dang dở.Ngay
cả phim ảnh tôi cũng thích những phim có cốt truyện lãng mạn, đẹp và buồn.
Có lẽ tôi thừa hưởng máu văn nghệ từ họ nội. Bố tôi, chú
tôi,cô tôi các ông anh họ của tôi đều thích viết văn làm thơ. Còn cái máu lãng
mạn, thích chuyện tình buồn có thể do ảnh hưởng của mẹ. Cuộc đời mẹ chẳng
là một chuyện tình buồn và đẹp hay sao ?
Mẹ tôi có giọng
hát rất truyền cảm và bà chỉ thích những bài ca buồn. Bà hay hát bài Biệt ly của
Dzoãn Mẫn và Tristesse của Chopin lời Việt của Phạm Duy.
Mẹ tôi rất thích đọc truyện, bà có nguyên một tủ sách Tự
Lực Văn Đoàn. Còn bé , tôi đã đọc Nửa chừng xuân, Hồn bướm mơ tiên và đã khóc
thút thít.
Nhiều người khen mẹ tôi đẹp. Riêng tôi, tôi thấy bà rất
có duyên và có đôi mắt thật buồn. Có lẽ vì vậy mà cuộc đời tình cảm của bà cũng
phải buồn theo. Bà lên xe hoa năm 22 tuổi, 26 tuổi đã bước theo xe tang tiễn biệt
người chồng yêu quý. Bà ở vậy nuôi hai anh em tôi khôn lớn, không hề nghĩ đến
chuyện tái giá dù chung quanh bà không biết bao người xứng đáng muốn chắp nối
cùng bà. Mỗi lần nhắc đến mẹ là ngòi bút tôi lan man không ngừng được.
Bây giờ xin trở lại những ngày lưu lạc giang hồ của gia
đình tôi.
Sống với Việt cộng không được, gia đình tôi tìm cách dinh
tê ( tiếng lóng ý nói tìm cách vào thành).Hành trình thật khó khăn vất vả.Thanh
Hóa là vùng Việt cộng kiểm soát, Hà Nội là vùng Quốc Gia. Biết bao nhiêu trạm
kiểm soát canh gác cẩn mật của Việt Cộng ở vùng biên giới. Đi tới đâu chúng tôi
cũng phải giả vờ là dân địa phương, do đó không thể mang theo hành lý. Ra đi, mẹ
tôi đau khổ nhất là phải rời xa ngôi mộ của bố tôi và để lại những chiếc khăn
quàng đầy kỷ niệm.
Đến Hà Nội, trời cũng mới vào thu, tôi được ông anh họ dẫn
đi chơi xem Hồ Hoàn Kiếm. Tôi đứng ngây người ngắm mấy cô gái mặc áo dài nhung
với khăn quàng cổ, những chiếc khăn mỏng bay nhẹ nhàng phất phơ trong gió. Tôi
chợt nhớ đến những chiếc khăn quàng của mẹ và thấy thương mẹ vô cùng.
Ở Hà Nội được hai năm thì Hiệp Định Geneve chia đôi đất
nước. Gia đình tôi lại phải rời Hà Nội xuống Hải Phòng rồi di chuyển vào
Saigon.
Ở Saigon mùa thu của tôi biến mất. Miền Nam chỉ có mưa nắng
hai mùa. Tôi nhớ mùa thu vô cùng. Cũng may tôi đã lớn để biết tìm hình ảnh mùa
thu qua những tập truyện, những bài thơ, những bài hát.
Tôi thuộc lòng và rất thich bốn câu thơ của Lưu Trọng Lư
Em không nghe mùa thu
Lá thu rơi xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô….
Tuy có giọng hát ống bơ rỉ, tôi cũng thuộc lòng khá nhiều
bài hát về mùa thu của các nhạc sĩ nổi tiếng. Vì thích mùa thu, nên có bài hát
nào về thu là tôi nghe tới nghe lui, nghe đi nghe lại,nghe hoài không chán.
Cuối cùng, theo vận nước nổi trôi, gia đình tôi lại lưu lạc
sang đất Mỹ. Tôi may mắn được định cư ở vùng Hoa Thịnh Đốn, nơi có thời tiết bốn
mùa, nên lại được tái ngộ với mùa thu của tôi.
Ngôi nhà tôi ở, có rừng cây ở phía sau, nên các chú nai
thường rủ nhau đến rong chơi.
Tôi trót yêu “ con nai vàng ngơ ngác” của Lưu Trọng Lư,và
“con nai vàng hát khúc yêu đương” của Ngô thụy Miên, nên đành ngậm đắng nuốt
cay khi mấy con nai đêm đêm cứ mò ra ăn sạch bách hết những cây hoa quý của
tôi.Cuối cùng, tôi đành phải trồng hoa trong chậu trên cái deck cao sau nhà, mới
không bị nai chiếu cố.
Những con nai đã hư đốn như vậy.Đám lá vàng cũng làm tôi
mệt phờ người luôn.
Năm nào cuối thu, tôi cũng phải hốt lá vàng mệt nghỉ.
Ưóc gì tôi được trở lại cái thuở thích nằm trên những thảm lá vàng, và thích tung lá vàng thả bay theo
gió. Tuổi thơ thật thần tiên.
Bây giờ nhìn thảm lá vàng là nghĩ ngay tới cái lưng già sắp
còng thêm một tí vì phải lom khom hốt lá, và xương cốt sắp sửa rêm rêm. Chao
ơi, ngán ngẩm làm sao cái tuổi già.
Nai thì phá như vậy, lá vàng cũng làm mình mệt nhoài. Vậy
mà tôi vẫn yêu mùa thu, vẫn thương mấy chú nai và vẫn ngẩn ngơ nhìn những rừng
lá vàng, lá đỏ. Có phải vì duyên nợ với mùa thu ?
Mùa thu ở vùng Hoa Thịnh Đốn của tôi đẹp lắm, đẹp đến não
lòng người.
Có người bảo mùa thu Paris đẹp
Nhưng sao bằng mùa thu ở DC
Mùa thu Paris thường không có nắng
Mùa thu DC lá đỏ thắm dưới nắng vàng
Trời thật trong với gió mát dịu dàng
Ai cũng phải ngỡ ngàng vì mùa thu quá đẹp
Đầu thu 2013
Hồng Thủy
***
THƠ
Thơ là đôi mắt em nhìn
Đôi mi cong vút đa tình anh yêu
Thơ mang ánh nắng buổi chiều
Pha màu tà áo nâng niu dáng ngà
Thơ trải lên giường chiếu hoa
Tấm thân trinh nữ một tòa thiên nhiên
Thơ mang một chút ưu phiền
Cho mi em ướt, đảo điên lòng người
Thơ tô đôi má hồng tươi
Ngẩn ngơ say đắm rụng rời con tim
Thơ rơi trên đôi môi mềm
Cho anh ngây ngất triền miên một đời
Thơ anh như sóng trùng khơi
Khóc cười mệnh nước một thời ly hương
Thơ anh gãy vận nửa đường
Vì nàng thơ đã muôn phương xa lìa.
Nguyễn Thị Thêm
***
HƯƠNG XUÂN
tiểu thu
Buổi chiều
đi làm về, nghe mẹ báo tin năm nay nhà mình và nhà bác Minh sẽ ăn Tết chung.
Liên cười trả lời mẹ:
-Càng
vui. Xưa nay nhà mình ăn Tết cu ky, buồn thấy mồ.
Buổi tối
trong bàn ăn, bà Thuần, mẹ Liên, nói:
-Mới đó
mà nhà bác Minh dọn tới khu này gần hai năm rồi. Thời gian đi mau phát sợ luôn!
Ở tuổi mẹ, càng mong nó đi chậm bao nhiêu nó lại càng phi nước đại bấy nhiêu.
Chẳng mấy chốc mà xuống lỗ!
Bé Uyên,
đứa con gái mười ba tuổi của Liên, vội vàng đính chánh:
-Đâu có.
Con thấy ngoại còn trẻ lắm mà. Ngoại mới sáu mươi hai, bà Minh bảy mươi, còn
già hơn ngoại nhiều!
Bà Thuần
cười, mắng yêu con bé:
-Mẹ mày!
Chỉ giỏi nịnh. Tuổi bà ở Việt Nam, mọi người đã phải gọi bằng Cụ rồi. Ở đó mà
trẻ lắm!
Liên ngắt
lời:
-Còn một
tuần nữa là Tết. Năm nay mẹ có định gói bánh tét như năm ngoái không? Con thấy
gói vui nhưng mẹ cực quá. Hay mình đặt dưới tiệm dì Ba cho rồi.
-Ối,
ngoài bữa cơm chiều mẹ cũng đâu có bận rộn gì. Một năm mới có một lần. Hơn nữa
mẹ gói bánh tét ba màu, biếu nhà nào họ cũng thích. Để mẹ rủ bác Minh qua gói với
mẹ cho vui.
– Mẹ vui
là được rồi. Ngày mai thứ bảy, con chở mẹ đi chợ Kim Phát mua những thứ mẹ cần.
Bánh mứt năm nay không biết sao, chớ đọc báo thấy hàng Trung Quốc ngán quá!
Tiến, chồng
Liên, xen vô:
-Em tính
đi. Hồi nào tới giờ em “tiếp thu” bao nhiêu chất độc trong hàng hoá, thực phẩm chế biến từ Trung Quốc? Cứ
tưởng ăn chay với đậu hủ là an toàn nhất. Ngờ đâu trong đậu hủ cũng có độc
luôn! Rau, quả cũng đầy thuốc trừ sâu. Thôi, anh xuôi theo tự nhiên. Chừng nào
ông trời gọi “Tiến” thì anh dạ. Nếu sợ thì chỉ có nước nhịn đói thôi em à!
-Xời, nói
như anh! Hồi nào không biết thì ăn, bây giờ biết rồi cũng phải tránh chớ bộ!
-Cưng ơi,
thịt bò, thịt heo, thịt gà ở đây họ cũng cho hormone tăng trưởng như điên. Em
không thấy ngày xưa ở Việt Nam. Con gái mười bốn, mười lăm mới thấy “kinh” lần
đầu. “Mặt tiền” giống như hai cái chũm cau. Con nít bây giờ í hả. Chín, mười tuổi
đã “có” rồi và thay vì những cái chũm cau, toàn là cam với bưởi không à!
-Trời đất!
Sao anh rành sáu câu vậy hả? Liên tròn mắt.
Tiến trả
lời tỉnh bơ:
-Thời “A
Còng” mà em. Cứ lên mạng là thứ gì cũng có. Cả những “chiện” thâm cung bí sử từ
thời ông Bành Tổ. Ngay những phương pháp giết người cũng có luôn mới là khiếp!
Liên nhăn
mặt:
-Anh, trước
mặt con mà anh nói chuyện ghê quá hà…
Nhưng bé
Uyên lại có thắc mắc khác:
-Mẹ à,
ông Bành Tổ là ông nào vậy mẹ? Trong lớp con có thằng tên Bành Trung Hiếu.
Liên hất
hàm qua phía chồng:
-Con hỏi
ba con kìa. Chắc ổng rành hơn mẹ!
Tín cười
hì hì:
-À, đó là
một ông già sống lâu nhất lịch sử nhân loại. Nghe đâu ổng sống tới tám trăm tuổi
mới chịu khăn gói quả mướp về bên kia thế giới. À mà hôm nào con hỏi thằng bạn
con, chắc nó rành hơn ba. Thế nào họ cũng có bà con mà.
Nói xong
Tiến đứng lên, xin phép mẹ vợ rồi đi ra phòng khách mở TV xem tin tức. Liên
nhìn theo, lắc đầu:
– Mẹ coi,
ảnh già đầu rồi mà cứ như con nít!
Nhưng bà
Thuần cười hiền hậu:
– Nhờ vậy
mà vui cửa vui nhà. Ba con hồi trước nghiêm quá, thành ra tới bữa cơm ai cũng cắm
cúi ăn. Nhà mình không có tiếng cười như bây giờ. Thôi để chút nữa mẹ gọi điện
thoại nói chuyện chơi với bác Minh. Luôn thể rủ bác thứ năm qua nhà mình gói
bánh tét với mẹ. Mẹ và bác Minh coi vậy mà có duyên. Ai ngờ hơn nửa thế kỷ còn
gặp lại trên đất nước xa cả nửa vòng trái đất! Nhớ tới chuyện xưa mẹ còn buồn
vô cùng! Thương cho bác và cậu hai của con!
Nói
xong cặp mắt bà Thuần hơi ửng đỏ. Liên vội
vàng gạt ngang:
-Thôi, mẹ
nhớ làm gì những chuyện buồn như vậy. Bề nào cậu hai cũng mất rồi. Hơn nữa con
thấy bác Minh vẫn vui vẻ chớ có buồn rầu gì đâu! Ở đời ai cũng có số mà. Mà mẹ
quên câu “tình chỉ đẹp khi còn dang dở, lấy nhau rồi… nham nhở lắm em ơi!” hay
sao?
Bà Thuần
đang buồn cũng phải bật cười. Cái con nhỏ này tếu giống hệt bà hồi trẻ.
-Bà ngoại.
Bà ngoại kể lại chuyện ông cậu hai với bà Minh cho con nghe đi. Hôm trước con
có nghe mà không để ý lắm. Như là ông cậu với bà Minh ngày xưa bồ nhau phải
không? Bé Uyên nắm tay bà ngoại lắc lắc, miệng cười duyên.
-Khiếp!
Con nít con nôi mà nghe chi mấy chuyện này! Liên nhăn mặt.
-Không
sao. Mười ba tuổi cũng đâu còn nhỏ nhít gì. Để bà kể cháu nghe. Chuyện bắt đầu
hồi bà mới tám chín tuổi gì đó. Gia đình ông bà ngoại ở Sàigòn, ngay Ngã Tư
Bình Hòa. Ông cậu Hai của con năm đó hai mươi tuổi. Bà dì Ba mười bảy. Bà dì hồi
con gái đẹp lộng lẫy. Da trắng như trứng gà bóc, mắt mũi đều đẹp như tranh. Mới
mười lăm tuổi mà có cả chục chỗ đi coi mắt rồi đó.
Bé Uyên
ngây thơ hỏi:
-Mắt bà
dì bị gì mà người ta tới coi hả ngoại?
Liên phì
cười:
-Coi mắt
tức là đến nhà để xem bà dì xấu hay đẹp. Bà dì con nổi tiếng vừa đẹp vừa khéo.
Được cả công dung ngôn hạnh nên nhiều người muốn cưới về làm vợ, hiểu chưa!
Con bé
nghe mẹ nói một tràng bèn le lưỡi, rụt cổ, tỏ dấu ngạc nhiên:
– Còn bà
ngoại, hồi nhỏ xấu hay đẹp hả ngoại?
-Ngoại hả?
ngoại vừa đen vừa lùn, răng cỏ rất là vô trật tự. Nhưng “có diên” nên được mọi người cưng lắm!
Bé Uyên
chống tay ngồi nghe. Bà Thuần, cặp mắt mơ màng, như đang sống lại cái thuở còn là một con bé tám tuổi,
hàng ngày cắp sách đến trường Tiểu học Chi Lăng, gần Lăng Ông Bà Chiểu…
….Mẹ có cửa
hàng bán gạo ngoài chợ Cây Quéo. Ba đi làm ngoài đường Tự Do. Anh Thiên học
xong trung Học Pétrus Ký thì ghi tên học y tá. Chị Thu phụ mẹ ngoài cửa hàng.
Gia đình có thể nói là êm ấm. Anh Thiên đẹp trai như tài tử xi nê nên được nhiều
cô thương thầm. Trong số nữ sinh trong lớp có chị Thu Nguyệt. Chị thấy anh
Thiên bảnh quá bèn rủ về nhà giới thiệu cho cô em gái tên Minh Nguyệt. Chị Thu
Nguyệt đã có vị hôn phu là một sĩ quan Hải Quân. Trong nhà có ba cô con gái, mà
cô nào cũng Nguyệt, nên họ có thói quen chỉ gọi tên lót. Do đó chị Minh Nguyệt
được gọi tắt là Minh.
Năm đó chị
Minh mười bảy tuổi. Khác với bà chị, chị Minh rất dịu dàng, nhỏ nhẹ. Chị có làn
da trắng mịn và mái tóc thề xõa ngang lưng. Chị hay buộc tóc bằng chiếc băng đô
màu tím, khiến khuôn mặt trái soan của chị càng nõn nà, xinh đẹp quyến rũ. Hàm
răng đều, trắng như ngà. Khuôn mặt chị hoàn mỹ biết bao, nếu không có một nốt
ruồi đen mọc ngay dưới khoé mắt! Dĩ nhiên trai tài gái sắc gặp nhau là dính như
sam. Ba mẹ Thuần theo tây học nên đâu có
thèm để ý đến lời “cảnh cáo” của bà chị dâu “Thím tư thấy sao chớ cái nút ruồi
trích lệ thương phu này không mấy tốt à nghen”. Ông bà trả lời “tụi nó thương
nhau là được rồi. Con nhỏ vừa đẹp vừa hiền, tụi em ưng bụng lắm.”
Bé Thuần
đã từng theo mẹ đến thăm gia đình chị Minh. Nhà họ ở gần Cầu Bông. (Vì thế, sau
này cứ nghe người ta hát ai đang đi trên Cầu Bông, té xuống sông ướt cái quần
ny lông, là Mỹ Thuần lại nhớ đến chị
Minh, lòng rưng rưng buồn!). Mẹ chị góa chồng và tu tại gia. Bà ốm nhom
như con mắm, đầu cạo trọc và mặc áo màu dà, nói năng nhỏ nhẹ. Hai gia đình qua
lại rất thân mật và đã ngầm nhận nhau là sui gia. Chị Minh đến nhà Mỹ Thuần, xuống
bếp nấu nướng thoải mái như ở nhà chị. Anh Thiên chầu đằng xóm Cầu Bông nhiều
hơn xóm Bình Hòa. Hai nhà hứa hẹn khi anh Thiên ra trường sẽ làm đám cưới.
Nhưng (chữ
nhưng thật dáng ghét!) đùng một cái ông nội dưới quê đau nặng. Chú út của Mỹ
Thuần đưa ông cụ lên nhà thương Saint Paul. Họ khám phá ra ông bị ung thư cuống
họng. Điều trị gần một năm bịnh tình vẫn không thuyên giảm. Cuối cùng gia đình
đành đem ông cụ về quê tịnh dưỡng… Một mình chú Út không thể vừa săn sóc cha vừa
trông nom ruộng vườn, nên theo lệnh ông nội, gia đình Mỹ Thuần phải dọn về quê.
Trừ anh Thiên đang học dở dang, phải ở tạm nhà người bác. Cô bé Mỹ Thuần và con
bạn hàng xóm tên Kim Chi khóc mùi mẫn ngày cả nhà chất nhau lên xe rời Saigòn.
Nhưng người buồn nhất có lẽ là mẹ. Công lao bà gầy dựng nên cửa nên nhà, bây giờ phải bán dổ bán tháo cho người ta!
May mắn lúc đó dân di cư vào rất đông, vừa để bảng bán là có người mua ngay.
Tuổi trẻ
mau quên, nên sau một thời gian ngắn là bé Thuần lại tiếp tục vui đùa với những
người bạn mới và học hành bình thường. Chị Mai Thu có người đi hỏi. Ba mẹ bằng
lòng ngay, vì anh Phú đúng điệu là một trang nam tử hán! Anh cao lớn, cặp mắt
sâu sáng quắc dưới hàng lông mày rậm. Cái miệng nói chuyện dẻo quẹo, nhưng mà
thứ dẻo quẹo thiệt tình chớ không phải giả dối. Ngoài nhân vật chính là chị Mai
Thu yêu anh da diết, hầu như cả họ đều thích anh nên đám cưới được tổ chức thật
linh đình. Có một điều ông nội không mấy hài lòng, là gia đình anh Phú không được
môn đăng hộ đối!
Anh Thiên
sau khi ra trường về làm việc bên Long Xuyên. May quá, nơi đây có nhà bà cô của
chị Minh. Ông bà không con, nên cưng anh Thiên như trứng mỏng. Thương yêu, săn
sóc anh không khác con ruột. Bệnh tình ông nội càng ngày càng tăng. Ông sợ chết
trước khi thấy mặt cháu dâu, nên thúc ba mẹ cưới vợ cho anh Thiên gấp. Khi
trình với ông nội rằng sẽ cưới chị Minh Nguyệt cho anh Thiên, thì ba mẹ gặp
ngay sự phản đối mãnh liệt! Tuy giọng ông thều thào nhưng không kém phần cương
quyết:
-Tao
không muốn thằng Thiên cưới con gái Sài Gòn (?!). Hai nữa con nhỏ đó tuy đẹp
nhưng có cái nút ruồi trích lệ thương phu. (Xui cho chị Minh, khi ông nội còn nằm
nhà thương Saint Paul, anh Thiên có dẫn chị vô thăm nên ông mới thấy cái nốt ruồi của chị!). Vợ
chồng bây có một thằng con trai, chắc bây hổng muốn nó chết yểu chớ hả? Tao đã
ngắm con Kim, con gái chú hai Lễ bên Hòa An rồi. Con nhỏ bằng tuổi con Thu nhà
mình, mà giỏi lắm, chăn dắt nguyên một đàn em sáu đứa. Trước đây tao có nói hơi
hơi với chú hai Lễ rồi. Họ bằng lòng lắm.
Mẹ Thuần
kêu lên thảng thốt:
– Cha à.
Con thấy chị hai Lễ đẻ sòn sòn năm một…
Ông nội
trợn mắt cắt ngang:
– Bây
nói gì kỳ vậy. Con một phải cháu bầy. Bây vỏn vẹn có một thằng con, phải có ít
nhứt năm bảy đứa cháu. Hai đứa con gái đâu có ở với mình suốt đời. Bây mà cãi
tao là tao từ đó đa!
Anh Thiên
được triệu về gấp để hỏi ý kiến. Trước cái tin sét đánh anh cũng muốn xỉu luôn!
Mấy ngày liền anh năn nỉ ông nội, nhưng ông vẫn một mực lắc đầu. Anh định bỏ
nhà lên Sài Gòn, nhưng thấy mẹ khóc lóc năn nỉ quá, sau cùng anh phải cắn răng
vâng lời ông nội đi cưới chị Kim.
Anh Thiên
không dám gặp cô chị Minh. Anh viết cho hai ông bà một lá thư, nhờ thằng con chú Út cầm qua Long
Xuyên và thu dọn đồ đạc mang về cho anh. Theo lời thằng Trung kể lại thì khi đọc
xong bức thư, cô chị Minh ngã lăn ra… xỉu ! Lúc tỉnh lại thì khóc như mưa sa
bão táp. Anh Thiên và mẹ nghe xong cũng khóc quá trời! Nhưng người muốn mà trời
định. Mà con người thì vốn nhỏ nhoi, địch sao lại với ông Trời!
Ít lâu
sau ông nội ra đi với gương mặt thanh thản và nụ cười mãn nguyện. Có ngờ đâu, để
ông vui lòng mà bao nhiêu con tim tan nát. Cuộc tình tưởng đẹp đã trở thành đau
thương, ai oán!
Một năm
sau chị Minh lấy một chàng trung úy Hải quân, bạn của ông anh rể. Anh này yêu
chị Minh từ lâu, nhưng trái tim của chị đã trao cho người khác. Khi thấy chị
Minh đau khổ vì bị anh Thiên bội ước, anh chàng đã đưa bờ vai rắn chắc của mình
cho người đẹp mượn đỡ. Cuối cùng chị Minh cũng cảm động và nhận lời cầu hôn của
anh ta.
Trời xui
đất khiến một lần anh Thiên qua Long Xuyên thăm vợ chồng bà cô chị Minh (lúc
này đã nguôi giận!). Đúng lúc chị cũng đang có mặt ở đó. Chị sững sờ nhìn
anh mấy giây, rồi vội vàng bế con chạy
vào buồng, khóc ngất. Gọi gì cũng nhất định không chịu ra. Anh Thiên trở về nhà
mà mà lòng nát như tương!!! Thuần không biết chị Minh có thật sự hạnh phúc với
chồng không, nhưng phần anh Thiên thì cứ sống với chị Kim một cách ơ hờ. May mà
chị Kim tính tình hồn hậu, chất phác. Lấy được anh Thiên là mãn nguyện, chẳng cần thắc mắc, suy nghĩ sâu
xa. Cứ thế mà đẻ sòn sòn năm một như bà mẹ của chị. Chắc ông nội dưới suối vàng
rất hài lòng!
Giòng đời
cứ trôi, con người vẫn sống, dù cuộc đời có êm xuôi hay nghiệt ngã. Tháng Tư bảy
lăm, tai họa đổ ụp xuống miền Nam. Gia đình tan tác, chia lìa. Anh Thiên là chủ
tiệm ăn nên không phải đi học tập. Anh Phước, chồng chị Mai Thu và Khanh, chồng
của Mỹ Thuần là quân nhân cấp tá nên bị đưa đi học tập tận ngoài Bắc. Vùng khỉ
ho cò gáy, khí hậu khắc nghiệt Hoàng Liên Sơn. Ở lại Sàigòn, hai chị em nương tựa
nhau, buôn thúng bán mẹt để vừa nuôi con vừa nuôi chồng học tập cải tạo. May mà
Mỹ Thuần chỉ có một đứa con gái là Mỹ Liên. Sau mấy năm lăn lộn chợ trời, Mỹ
Thuần cũng có được chút vốn. Sẵn dịp gia đình ông anh chồng vượt biên, cô gởi
bé Liên đi theo, năm đó bé được chín tuổi. Gia đình người anh chồng chỉ có hai
con trai nên cưng cháu như con ruột.
Nhờ học tập
“tốt” nên mười năm sau, chồng Mỹ Thuần được Đảng khoan hồng, đem cái thân xác
xơ, bệnh tật về đoàn tụ với gia đình. Mỹ Liên đã có quốc tịch Canadienne, vội
vàng lập hồ sơ xin cho ba mẹ qua theo diện đoàn tụ. Gặp lại đứa con gái thân
yêu nay đã là một thiếu nữ dậy thì xinh đẹp, Mỹ Thuần khóc như mưa. Nhưng là những
giọt nước mắt hạnh phúc tràn bờ!
Những tưởng
từ đây không gì có thể chia rẻ họ được nữa. Vậy mà cách đây năm năm, ông Khanh
đã qua đời vì ung thư gan. Cũng may ông đã nhìn thấy gia đình hạnh phúc của đứa
con gái cưng độc nhất. Từ đó vợ chồng Mỹ Liên mời mẹ về ở chung với họ…
Cách đây mấy tháng, bà Thuần (bây giờ Mỹ Thuần đã là bà
ngoại Thuần, tóc diểm sương!) đi chợ Kim Phát. Đang lựa những chùm trái vải đỏ
tươi, mọng nước, bà chợt nhìn qua người đàn bà đứng tuổi bên cạnh. Có một cái
gì đó khiến bà thấy lấn cấn trong lòng. Hình như bà đã gặp người này ở đâu rồi,
nhưng ở đâu? Chắc chắn không phải ở đây. Chắc như vậy. Lúc đứng sắp hàng trả tiền,
ngẫu nhiên bà ta lại đứng ngay phía sau. Bà Thuần làm ra vẻ tự nhiên bắt chuyện
với bà nọ. Thì ra họ cùng ở St Léonard. Hai nhà cách nhau độ năm phút đi bộ.
Coi như hàng xóm mà không bao giờ gặp nhau kể cũng lạ! Cái nốt ruồi dưới khóe mắt?
Chưa kịp nghĩ tiếp thì tới phiên trả tiền. Đẩy xe thức ăn ra parking rồi mà bà
Thuần còn nấn ná đợi chưa muốn đi. Thấy bà ta ra tới nơi, bà Thuần vội nói:
-Hai chị
em mình coi như hàng xóm. Nếu không phiền em xin số phôn của chị, chị lấy số
phôn của em. Hai chị em mình thỉnh thoảng gọi nhau cho vui. Em tên Thuần. Mỹ
Thuần. Chị cho em biết quý danh được không?
Có lẽ tên
Mỹ Thuần cũng gợi cho người đàn bà lớn tuổi kia một cái gì đó, nên bà ta nhìn
bà Thuần có vẻ chăm chú hơn:
– Tôi tên
Minh Nguyệt.
Chữ Nguyệt
vừa thoát ra khỏi miệng bà ta là bà Thuần đã ào tới ôm bà ta chặt cứng, mếu
máo:
-Trời ơi,
chị Minh. Em là Mỹ Thuần, em của anh Thiên nè!
Nước mắt
hòa trong nước mắt. Hai người chỉ biết ôm nhau khóc mùi mẫn. Mặc kệ những cặp mắt
tò mò, kinh ngạc đang trố ra nhìn. Đến chừng có tiếng một người đàn ông cất
lên, hai bà mới giật mình buông nhau ra.
-Mẹ! mẹ…
làm gì mà khóc dữ vậy?
Bà Minh
lau nước mắt, gượng cười, miệng méo xệch:
– À Tú.
Đây là dì Thuần. Còn đây là Tú, con trai của chị.
Người đàn
ông trạc năm mươi. Mặt mũi có vẻ hiền hậu, nhìn bà Thuần chăm chăm:
-Dạ chào
dì. Cháu là Tú. Chắc dì và mẹ cháu quen nhau từ bên Việt Nam, hôm nay mới gặp lại?
Bà Thuần
chưa kịp mở miệng thì bà Minh đã vội đỡ lời:
-Ờ, Dì với
mẹ hồi xưa ở cùng xóm. Thôi chị về. Rồi chị sẽ điện thoại cho em nghen.
Bà Minh
ôm siết bà Thuần, thì thầm:
-Chị
không muốn cháu Tú biết chuyện xưa. Em thông cảm cho chị.
Trao đổi
số điện thoại xong, bà Minh theo con trai ra xe. Bà Thuần đứng đó, nhìn theo
bóng người xưa của ông anh, lòng bồi hồi khôn tả! Buồn vì nhớ tới người anh quá
vãng đã mấy năm. Vui vì dù sao bà Minh cũng là một phần dĩ vãng của bà. Kỷ niệm
dù vui, dù buồn vẫn đẹp. Nhớ lại thì lòng cũng thấy xuyến xao.!
Về nhà bà
Thuần kể ngay cho Mỹ Liên nghe cuộc hội ngộ kỳ thú vừa qua. Tối đó cơm nước
xong, dằn lòng không được, bà Thuần nhấc phôn gọi cho bà Minh. Hai người tỉ tê
tâm sự cả tiếng đồng hồ. Thì ra ông Tuấn, chồng bà Minh sau này lên tới Trung
Tá Hạm Trưởng. Hai người có ba đứa con. Một trai, hai gái. Tú may mắn được bố mẹ
cho sang Canada du học trước ngày mất nước. Chồng bà Minh bỏ xác trong trại cải
tạo. Chính Tú là người bảo lãnh bà và hai cô em gái qua Canada. Trước kia Tú có
vợ người bản xứ. Nhưng hai người đã ly hôn và bà Minh về ở với con trai cho tới
bây giờ. Bà săn sóc con trai và hai đứa cháu nội. Bà Thuần không nén nỗi, đưa
ra câu hỏi mà trong lòng bà vẫn thắc mắc từ lúc gặp lại bà Minh:
– Chị à,
em hỏi thật chị đừng giận nha. Có khi nào chị nhớ tới anh hai của em không?
Sau mấy
giây yên lặng, có tiếng cười khẽ từ đầu giây bên kia:
– Cô này
thiệt tò mò! Nếu chị nói không thì thật sự dối lòng. Dù sao anh Thiên cũng là mối
tình đầu của chị. Em còn nhớ bản nhạc Sầu Lẻ Bóng của nhạc sĩ Anh Bằng hay
không?
Người ơi
khi cố quên là khi lòng nhớ thêm,
Giòng đời
là chuỗi tiếc nhớ…
……………………………………..
Đời việc
gì đến sẽ đến,
Nhưng ai
bạc bẽo mình vẫn không đành lòng quên!
Tuy là anh Tuấn yêu chị thiết tha, nhưng con tim trong trắng
của chị đã bị thương tổn. Rồi vết thương nào cũng thành sẹo em à! Thật tình chị
không trách anh Thiên. Có đứa cháu nào nỡ trái ý người sắp lìa đời. Nếu là chị,
chị cũng sẽ hy sinh hạnh phúc của mình như anh hai em thôi. Chính vì nghĩ như vậy
nên chị không hề oán hận anh ấy. Mà thôi, chuyện đã qua hơn nửa thế kỷ rồi.
Chúng ta đều đầu hai thứ tóc. Cho nên việc gì cũng phải xem nhẹ. Từ lâu rồi,
tâm hồn chị rất là an lạc, thảnh thơi.
-Nghe chị
nói vậy em rất mừng. Em sợ chị vẫn còn giận anh hai em. Thứ bảy tới em mời chị
và các cháu tới nhà em ăn bánh xèo nghen. Cải xanh em trồng trong vườn bảo đảm
là ngon.
Bà Minh
vui vẻ nhận lời. Và kế tiếp là những bữa cơm thân mật khi thì nhà bà Minh, lúc
lại nhà bà Thuần. Hai bà tỏ ra rất tâm đắc…
* *
*
-Ngoại
ơi, chuyện của bà Minh với ông cậu hai tội nghiệp quá hả bà. Ông nội của ngoại
sao méchant quá hà. Nếu là con, con không chịu đâu! Bé Uyên dẩu mỏ nói với ngoại.
Bà Thuần cốc đầu con bé:
– Con có
biết ngày xưa áo mặc không qua khỏi đầu hay không? Ở đó mà không chịu! Thôi,
năm nay nhà mình tổ chức ăn tết thật to nha. Bà ngoại sẽ gói mười đòn bánh tét
nè, sẽ làm chạo tôm nè, gỏi ngó sen, bạch mộc nhĩ trộn tôm thịt nè…
-Thịt kho
nước dừa ăn với dưa giá. Con mê món đó của ngoại làm. Bé Uyên ngắt lời bà Thuần.
– Ừ, thì
thịt kho nước dừa. Mà con nhớ tiếp đãi hai đứa cháu bà Minh cho thật tốt nghen.
Hôm trước ngoại thấy con la con Alice làm nó khóc.
-Tại nó
phá đồ của con, Bé Uyên nhăn mặt. Mà thôi lần này Tết, con sẽ không la nó nữa.
* *
Đúng bảy
giờ có người bấm chuông. Bé Uyên xinh xắn trong chiếc áo dài gấm màu hồng đào,
nổi những đóa mai, lan, cúc trúc màu vàng ánh. Mái tóc thắt hai cái bím cột ru
băng hồng, chân mang hài cũng màu hồng, chạy ra mở cửa. Cả nhà bốn người của bà
Minh mặc áo măng tô từ đầu tới chân đi vào, xuýt xoa vì lạnh. Tiến từ trong nhà
chạy ra bắt tay Tú, rồi treo những chiếc áo lạnh dày cộm vô tủ, xong mời mọi
người vào phòng khách.
Bà Minh
hôm nay thật đẹp trong chiếc áo dài gấm Thượng Hải màu xanh đậm. Cổ đeo chuỗi hạt
vàng. Mái tóc nhiều muối hơn tiêu được bới gọn ra phía sau, để lộ đôi bông cẩm thạch xanh biếc.
Bà trang điểm thật nhẹ nhàng nhưng trông
rất sang trọng. Hai đứa cháu nội mặc đầm. Chúng cứ theo rờ rẩm chiếc áo dài của
bé Uyên, tỏ vẻ thích lắm. Bà Thuần từ trong phòng ăn đi ra. Ở tuổi sáu mươi
hai, nhưng trông bà còn rất mượt mà trong chiếc áo dài màu tím hoa cà, có thêu
những đóa mimosa vàng rải rác. Bà đeo toàn bộ nữ trang bằng hạt trai. Tóc cắt
ngắn thật đơn sơ nên trông bà trẻ hơn tuổi thật rất nhiều. Mỹ Liên cũng mặc áo
dài gấm màu vàng hoàng hậu, đeo nữ trang Chanel cho có vẻ tân thời.
Tiếng
chào nói, chúc tụng dòn tan như pháo nổ. Giữa phòng khách là chiếc độc bình bằng
sứ, cắm những cành đào hoa nở bung khoe sắc hồng tươi thắm. Củi trong lò sưởi nổ tí tách, ánh
lửa đỏ nhảy múa trông thật ấm cúng. Bà Thuần mời mọi người qua phòng ăn. Dưới
ánh đèn pha lê lung linh sáng, những đĩa thức ăn được bày kín trên chiếc bàn
dài phủ khăn màu trắng tinh. Chỉ mới nhìn thôi đã thấy ngon, bà Minh không ngớt
xuýt soa! Những cây chạo tôm bọc mía nướng vừa vàng, được xếp nằm khéo léo trên
những lá sà lách xanh non. Đĩa gỏi ngó sen, bạch mộc nhĩ, tôm, thịt được Mỹ
Liên trang trí thêm bằng những bông hoa khắc từ cà rốt, radis thật mỹ thuật…
Nhưng đặc biệt hơn cả là đĩa bánh tét. Những khoanh bánh được cắt ra, xếp ngay
ngắn trong chiếc đĩa sứ màu trắng, càng
làm tăng nét đẹp của màu sắc trong chiếc
bánh. Vòng ngoài cùng, nếp trộn lá dứa
nên có màu xanh cẩm thạch. Vòng kế, nếp trộn lá cẩm có màu tím. Vòng thứ ba là
đậu xanh bóc vỏ màu vàng tươi và chính giữa là thịt heo ướp vừa miệng. Ăn miếng
bánh vừa thơm, vừa bùi vừa béo. Món này bà Thuần học được từ người cô, lấy chồng
miệt Sa Đéc. Nghe đâu những bà thuộc diện khéo vô địch, khi cắt ra, chính giữa
khoanh bánh còn có chữ Thọ. Mục này thì bà xin chào thua!
Tú có đem
một cặp rượu Champagne để uống mừng ngày Tết tha hương. Cũng là để mừng cuộc
trùng phùng hy hữu của hai bà “hàng xóm” ngày xưa bên Việt Nam. Trước khi cầm đủa,
Champagne được rót vào những chiếc ly pha lê trong vắt (cánh nhi đồng chỉ được
uống coca!). Mọi người nâng ly, trao nhau những lời chúc tốt lành nhất cho năm
mới. Trên môi là những nụ cười rạng rỡ, nhưng trong khoé mắt của hai bà mẹ lấp
lánh những giọt lệ. Trong lòng hai bà đang dâng trào một niềm hạnh phúc khó tả.
Lâng lâng như sương khói (mà chắc chắn không phải vì ép phê của rượu
Champagne!). Tuy ngoài trời tuyết lất phất rơi, nhưng trong ngôi nhà ấm cúng,
hương xuân vẫn ngào ngạt trong lòng mọi người…
Bé Uyên
không quên nhắc nhở:
-Ngoại,
ba mẹ, đừng quên tiền lì xì cho Alice với Aline à nha.
Bà Thuần
cười:
-Con nhỏ
này. Bữa nay sao hiền quá vậy kìa!
Bé Uyên
nháy mắt:
– Hôm nay
Tết mà ngoại!
Tiểu- Thu
***
GIỮ NGƯỜI TRONG MỘNG.
”
Giấu người trong giấc mộng dài.
Sợ khi tỉnh giấc tình bay mộng tàn”)
Khuyết
danh
Thu đã vừa đi, đông đến rồi
Đời lặng lờ như lục bình trôi
Chúng mình ly biệt bao năm tháng
Sao mãi tim em vẫn nhớ người?
Nhớ người yêu dấu thuở xa xưa
Nhớ lúc trông thư, nhớ hẹn hò
Giấc mộng tròn duyên đôi giấc mộng
Bàn tay xa vẫy gọi trong mơ
Anh nói tình ta bền mãi mãi
Em thề muôn dặm chẳng phôi phai
Sáu năm sông núi lòng chưa lạnh
Bao mùa dâu bể nguyện không sai
Biên thùy tiếng súng rộn bờ mơ
Gió lộng đêm buồn lá xác xơ
Em nhớ về anh tim trống vắng
Niềm riêng kết lại dệt thành thơ
Có gì lãng đãng sau song cửa
Có gì huyền hoặc giữa sương đêm
Hồn anh có lẻn theo trăng úa
Mang đến cho em khúc nhạc mềm?
Hãy nhớ trong mơ đến với em
Giữ dùm em mộng tuổi thần tiên
Đời không cô độc, không ly biệt
Chỉ có hai mình đẹp nợ duyên.
Las Vegas, December 12, 2020
Cao
Minh Nguyệt.